Trùng trùng quân đi như sóng
Lớp lớp đoàn quân tiến về
Chúng ta đi nghe vui lúc quân thù đầu hàng
Cờ ngày nào tung bay trên phố
Trùng trùng say trong câu hát, lấp lánh lưỡi lê sáng ngời
Chúng ta đem vinh quang sức dân tộc trở về
Cả cuộc đời tươi vui về đây
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về
Như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào
Chảy dòng sương sớm long lanh
Chúng ta ươm lại hoa sắc hương say ngày xa
Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu
Những bông hoa ngày mai đón tương lai vào tay
Những xuân đời mỉm cười vui hát lên
Khi đoàn quân tiến về là đêm tan dần
Như mùa xuân xuống cành đường nghe gió về
Hà Nội bừng tiến quân ca
Hồi cuối năm 1948, tôi được lệnh của trên điều về công tác tại Chi hội Văn nghệ Liên khu 3. Cùng đi với tôi có Nguyễn Đình Thi và Tô Ngọc Vân. Vì hoàn cảnh chiến tranh lúc đó là “thời kỳ cầm cự”, có thể chiến tranh kéo dài không biết đến bao giờ, tôi đã mang theo vợ con vượt đường số 6, đi bộ gần một tháng mới về đến “chợ Đại” thuộc Liên khu 3. Con trai mới được tám tháng, tôi phải địu con giúp vợ vì vợ tôi phải gánh đồ đạc, quần áo tư trang. Dọc đường ngày đi đêm cũng đi, khi gần đến bốt địch canh ven đường số 6, đoàn chúng tôi phải cải trang là những người gánh muối (những lái buôn muối). Để đi thoát mắt địch chúng tôi phải lội qua suối từ bốn giờ sáng, im ắng không được ho không được nói, ngậm tăm mà đi. Nếu có tiếng súng bắn từ đồn địch ra thì phải trú vào bụi lau, lúc đó bụi lau rất rậm, ngập đầu người. Các anh Tô Ngọc Vân và Nguyễn Đình Thi đã giúp cõng cháu Thao con tôi khi đi đường vì tôi mới ra viện vẫn còn sốt rét chưa dứt cơn. Chặng đường đi rất dài. Chúng tôi đã phải leo qua “dốc Linh”, dốc Mác và qua nhiều đồn bốt địch mới về được tới chợ Đại.
Khi về tới chợ Đại, chúng tôi phải đến gặp ngay đồng chí Lương Xuân Nhị và đồng chí Tử Phác, lúc đó là cán bộ lãnh đạo Chi hội Văn nghệ Liên khu 3. Riêng về nhiệm vụ công tác của tôi là phải sáng tác một bài hát cho Hà Nội. Tôi còn nhớ trong một buổi họp chi bộ ở Liên khu 3, tôi đã hứa với các đồng chí Khuất Duy Tiến và đồng chí Lê Quang Đạo là tôi sẽ viết một ca khúc về Hà Nội. Tối hôm ấy, tôi đã cùng ăn cơm với anh Lê Quang Đạo. Anh Đạo đã nắm chặt tay tôi và nói: “Những ca khúc của cậu đã làm tôi rất xúc động. Nhất là bài Làng tôi và bài Trường ca Sông Lô. Nét nhạc và lời ca thơ mộng lắm! Làm mình rất nhớ Việt Bắc. Dù sao thì chất lãng mạn của cậu vẫn không thay đổi. Riêng bài sông Lô có đoạn như “Đoàn quân thời chinh chiến ca rằng: Đây Vôn-ga, đây Dương Tử, đây sông Lô, đây sóng căm hờn vút cao…”. Không những lời ca hay mà nét nhạc lại rất du dương và hùng tráng nữa chứ! Vậy nếu cậu yêu Hà Nội nhớ Hà Nội thì hãy sáng tác cho Hà Nội một bài hát vừa hùng tráng vừa trữ tình nhé!”. Khi anh Đạo tiễn tôi ra về, anh đã khoác tay tôi đi trên đường làng một quãng dài, anh thủ thỉ nói với tôi “Khẩu hiệu của Trung ương là tất cả cho tổng phản công nhưng nếu có một bài hát cho Hà Nội đầy tình cảm cũng là mơ ước của những người dân thủ đô đấy”.
Đêm hôm ấy tôi ra về, đi dọc đường làng trăng sáng lung linh bên những bụi tre xanh và những nét nhạc đầu tiên của bài “Tiến về Hà Nội” đã đến với tôi, “Trùng trùng quân đi như sóng. Lớp lớp đoàn quân tiến về…”
Chỉ hai tuần lễ sau đó, tôi đã viết xong ca khúc “Tiến về Hà Nội”, khi ấy là mùa xuân 1949. Bài hát “Tiến về Hà Nội” của tôi đã được anh Khuất Duy Tiến cho in vào tờ báo Thủ đô hồi ấy.
Trong những kỷ niệm của tôi khi làm báo Thủ đô, tôi nhớ nhất là nụ cười rất hồn hậu của anh Lê Quang Đạo khi ngồi nghe tôi và các bạn tôi hát bài “Tiến về Hà Nội”.
Nhạc sĩ VĂN CAO
(Trích trong cuốn “Lê Quang Đạo” – NXB Quân đội Nhân dân)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét