Thứ Năm, 10 tháng 12, 2009

Huyền thoại hoa TiGôn (c)

IV. Loại đề tổng hợp: Phân tích tác phẩm “Tống biệt hành” (TBH) của Thâm Tâm (TT):

Dựa trên bản cũ nhất của HT – HC trong TNVN, người viết đưa vào bốn câu cuối bị cắt của thi phẩm sau khi đọc các đoạn và chọn bốn câu cuối của thi phẩm đưa về bản TBH:

Hơi thu đầu núi giá lên trăng,

Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.

Ly khách ven trời nghe muốn khóc

Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm.

Với loại đề tổng hợp, người viết đi từ hiện thực (bối cảnh có trong văn bản đến hiện thực xã hội từ văn bản suy ra) sau đó, đưa giá trị hiện thực lên giá trị hình tượng qua cách đi từ nội dung sang nghệ thuật hòng mang đến cho người đọc hiểu thêm ý nghĩa ”Nhân bản” trong “Thi phẩm TBH ” qua sự chọn lựa cách phân tích ngang chứ không theo cách phân tích theo bố cục hay từng đoạn bởi vì các ý tưởng lẫn lộn, ẩn mình trong từng câu trên dưới.

Phần dẫn chứng có sử dụng thơ văn của các nhà thơ trong nước cũng như thi hữu nước ngoài không phân biệt. Mọi tư liệu tham khảo có trích dẫn hay tư liệu trích từ các nguồn, người viết sẽ ghi rõ trong bài.

KHÚC NHẠC TIỄN ÐƯA NHÂN BẢN

TỐNG BIỆT HÀNH

Ðưa người, ta không đưa qua sông,

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Ðưa người, ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình, một dửng dưng…

– Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,

Chí nhớn chưa về bàn tay không,

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.

***

Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước.

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,

Một chị, hai chị cùng như sen

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.

Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay;

Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say.

Hơi thu đầu núi giá lên trăng,

Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.

Ly khách ven trời nghe muốn khóc

Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm.

(Thâm Tâm)

(”Thi nhân Việt NamHoài Thanh – Hoài Chân trang 275 – 276, tháng 11- 1941).

Nét buồn thời chiến đã mang lại cho văn học nhân loại một đề tài tiễn biệt. Bên cạnh dòng chảy tiễn biệt tổng hợp xuyên qua mọi thời đại, TBH của TT với hai mươi sáu câu thơ theo thể thất ngôn đã vượt trội với dòng thơ trữ tình chảy riêng từ nhánh sông Văn học Việt Nam đổ vào dòng tiễn biệt của Văn học thế giới.

Giá trị hiện thực xã hội thời loạn lạc được TT phản ánh qua văn bản với nhiều ẩn ý sâu sa: Một gia đình gồm mẹ già, hai chị và một em gái. Gia đình này đã trải qua những đêm nước mắt vì sự quyết định ra đi của người con trai. Ai đã nhìn thấu được nội tâm của từng nhân vật mà viết xuống nếu không là người trong cuộc:

Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước.

… Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay;

Cụm từ ”Ta và ngươi” khác ”Ta và người”. ”Ta” một lối xưng hô từ ”Tôi” mà ra nhưng hàm ý khí phách rất biết mình, tự khẳng định mình so với cái từ “Tôi” khiêm tốn. “Ta” có thể đi với “Ngươi” vì tính cách ngang hàng. ”Ta” cũng đi với ”Người” như ”Tiễn người – ta tiễn thêm lần nữa” (Hoàng Định Nam). “Tôi” đi với “Người” trong câu ”Người đi – Tôi tiễn khỏi lòng tôi” (Hoàng Định Nam). “Ta” đi với “Em” như người yêu, như người em gái: “Ta và em với không tên” (Trần Anh Thái). “Ta” đi với “Ta” như hai người: “Bác đến chơi nhà ta với ta” (Nguyễn Khuyến). “Ta” đi với “Ta” là chủ thể một người: “Ta đến một mình ta với ta” (Duyên Anh)…

”Ngươi” hay ”Người” đều chỉ ngôi vị thứ hai tức là người thứ hai. ”Tôi” hay ”Ta” chỉ là một người là chủ thể, là bản thể của mình. Trong TBH, với hai câu trên, ta cũng ngầm hiểu được có hai người. Một người là chủ thể ngôi thứ nhất đang nói với ngôi vị thứ hai. Nhưng khi xét toàn văn bản, chủ thể ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai lại nằm trong một con người theo một lời độc thoại: Con người của mình trong quá khứ nói với con người của mình trong hiện tại.

Một dị bản khác viết ”Ta biết người buồn” thì thấy rõ hai con người khác nhau nhưng trong TBH, TT đã viết ”Ta biết ngươi buồn” thì hiểu ngay ”ngươi” ”ta” nên ”ngươi” có suy nghĩ gì ”ta” cũng biết hết. Không ai dùng cặp từ ”Ta-Người” là hai người cho một người nhưng nói về một người có thể dùng cặp từ xưng hô ngang hàng ”Ta-Ngươi”.

Theo cách hiểu như vậy, TT trong TBH “ngươi”, ta hiểu chỉ còn một người, tức là mình tự nói với chính mình. Độc thoại nội tâm nhân vật bộc phát khi gặp tình huống bất ngờ. Trong TBH, tình huống đó là sự chia ly. Khi TT dùng ”người” là có cả hai người. Hai người đó là những ai? Một người là người nào? Hiểu ra họ, thi phẩm phần nào được hóa giải theo nghĩa ”tươi lắm thay” chư không ”buồn chiều hôm trước, buồn sáng hôm nay” và mới thấy sự cắt bỏ đoạn cuối của thi phẩm là một sự không nên làm.

Nghiên cứu tác phẩm chính là chỉ ra “những yếu tố, những chọn lựa và kết hợp, bổ sung và đối lập” để làm gì? “Để phát hiện những yếu tố bổ sung trong tác phẩm văn học đã bổ ích, phát hiện được những đối lập lại càng lí thú…” (Phân tích tác phẩm, Lí luận văn học, Nxb GD – 2000 tr 680).

Đó cũng chỉ là phát hiện những đối lập, những mâu thuẫn. Chính sự phát hiện này sẽ là cái nền cho ta đứng trên hiện thực tác phẩm phân tích nhân vật mà không bị… ngã ngửa!

Trong TBH, giá trị đối lập chính là: Hình ảnh hai người chị. Mẹ. Em gái. Người yêu. Chủ thể tác giả hay nhân vật của tác giả.

1. Hình ảnh hai người chị với các giá trị văn học:

“Tác phẩm nghệ thuật nói chung không chỉ chứa nội dung giao tiếp, không chỉ nối liền nhà văn (người sáng tác chung không chỉ nhà văn) với người đọc, xích gần con người với nhau…” (Lí luận văn học, sđd tr 181).

+ Giá trị tình chị em:

Trong TBH, hình ảnh hai người chị xuất hiện sau người mẹ nhưng giá trị của hai người chị quyết định “thái độ” của người mẹ yên tâm hay không yên tâm cho con ra đi.

Hai người chị xuất hiện trong TBH với các từ giản dị đầy ẩn dụ “hai chị cùng như sen” và “như hạt bụi“:

Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước.

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,

Một chị, hai chị cùng như sen

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.

… Chị thà coi như là hạt bụi

Buổi “chiều hôm trước” ám chỉ một thời gian đã qua nhưng chưa xa lắm. Nỗi buồn từ ”chiều hôm trước” còn tồn động thành đá tảng, chưa trôi tan đến “sáng hôm nay” dù hai người chị hết lòng: ”Khuyên nốt em trai dòng lệ sót”.

Dòng lệ sót” là dòng nước mắt đã cạn cùng và có thể hiểu như một dòng lệ sót sa vì từ ”dòng lệ” này có tính chất ướt lệ cho số nhiều chứ không như một ”giọt” ít ỏi. Hiểu theo hai nghĩa nhập lại ”dòng – giọt lệ sót” thì dứt giọt nước mắt chắt chiết này, lời cuối sẽ khô. Hai người chị không phí nước mắt nữa mà gạt nước mắt, bằng lòng tiễn em lên đường chẳng dây dưa qua từ “nốt” là hết không thêm bớt nửa lời (cho nốt, ăn nốt, làm nốt…).

Đây là một tính cách cứng cáp hiếm có. Có lẽ, nó được phát sinh từ hình bóng trụ cột là người cha không có trong gia đình và gia đình này đã quen với sự trống vắng, chịu đựng mất mát. Sống trong một môi trường như thế, những con người ấy sẽ có tính cách vững vàng, quyết liệt hơn. Hai người chị trong TBH đã là nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Từ trang sách bước ra, họ là nhân vật phụ nữ được soi sáng bằng giá trị văn học. Họ là tấm gương của một truyền thống nhân văn Việt NamAnh em như thể tay chân” cho tất cả những người phụ nữ nói riêng và người Việt Nam nói chung soi vào thấy bóng quá khứ, hiện tại và tương lai. Giá trị này của TBH qua nhân vật hai người chị lẽ nào không được văn học ghi nhận, đóng dấu?

+ Giá trị ẩn dụ một vẻ đẹp từ hình thức đến nội dung của hai người chị:

Với hai chị? Hai chị trong trắng, tiết tháo hơn bất cứ loài hoa nào mà người em trai đã nhìn thấy:

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,

Một chị, hai chị cùng như sen

(Văn bản khác ghi ”cũng như sen”, đồng nghĩa).

Thi phẩm có hai từ“nốt” – cách dùng miền Bắc – nghĩa là hết, chấm dứt, cuối cùng. (Hiện nay, thi ca ít thấy sử dụng, chỉ sử dụng trong văn nói).

Một từ ”nốt” dùng cho lời khuyên em trai của hai người chị ”Khuyên nốt em trai dòng lệ sót”. (Theo ”dòng lệ – giọt lệ sót”, ta có thể hiểu lúc đầu sẽ khuyên em trai đừng đi, sau đó gạt nước mắt khuyên bảo những điều dọc đường gió bụi cần làm. Ðây cũng là nét tâm lý chung mà chị thay mẹ lo lắng cho em.)

Từ ”nốt” thứ hai dùng cho loài sen ví với hai chị trong hai câu trên. Lời chị thương em đã rót ”nốt” – hết – cho người em trai. Người em trai cũng nhìn ra ”hết” – nốt – nét đẹp “cùng như sen” của hai chị. Sen có thể tàn nhưng hương sen trong lòng, sao có thể phai!

Người ngoài thường cho sen nở, sen tàn nên nghĩ hai chị cũng “tàn” như sen nhưng quên mất cái quý giá của sen chính ở chỗ ”Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Sen càng về đêm, sen ngào ngạt. Tình người về đêm càng khao khát lứa đôi.

Hai nhân vật người chị trong TBH mang giá trị văn học nhân văn “Trong đầm gì đẹp bằng sen…” với cái đẹp tâm hồn là đỉnh cao của nhận thức thẩm mỹ khi đánh giá cái đẹp của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Phẩm chất cao đẹp và sự hy sinh của người chị đã đi vào văn học nghệ thuật qua những sáng tác “Chị tôi” của Trần Tiến:

Nhà tôi trên bến sông có chiếc cầu nhỏ cong cong
Hàng cau dưới nắng trong lá trầu không
Chị tôi trông dễ thương bán rau chợ cầu Đông í a
Chị tôi chưa lấy chồng

Thời con gái lưng ong có bao người thầm mong theo
Mẹ dục con gái yêu lấy chồng đi
Chị thương hai đứa em thương mẹ già con đau í a
Chị tôi chưa lấy chồng

Rồi mẹ tôi khuất xa, chúng tôi không còn thơ ngây
Chị lại lo các em chuyện chồng con
Ngày chia tay bến sông thấy chị buồn mà thương í a
Chị tôi chưa lấy chồng

Rồi một đêm sáng trong có một người đàn ông qua
Họ về xây chiếc cầu nối bờ sông
Gặp chị tôi dễ thương mới xin lời cầu hôn í a
Chị cũng muốn lấy chồng

Cầu xây xong đã lâu không thấy người về đưa dâu.


“Chị tôi
” trong thơ Đinh Thu Hiền mất hết thời xuân sắc:

Chị thì đã quá bốn mươi
Người ta con cháu chị cười chát chua
Đời người sớm nắng chiều mưa
Tóc thề ngày ấy giờ thưa thớt rồi

Chị thì đã quá năm mươi…

“Chị tôi” trong thơ Khương Hữu Dụng là sự đầy đọa xác thân:

Chị tôi mười tám tuổi
Bước chân đi lấy chồng
Làm dâu bà mẹ ghẻ
Hai năm nước mắt ròng

Đem gởi nhà bác dâu
Vì thương tình vợ trẻ
Người chồng có ngờ đâu
Bác còn hơn mẹ ghẻ
… Chấm dứt một cuộc đời
Làm toàn bằng toàn nước mắt
Ra đi có ngậm cười
Đất lại về theo đất…
Thu 1926

“Chị tôi” với Đỗ Trung Lai là chiếc khăn tang trong lòng người góa phụ:

Anh tôi đi mãi không về
Không ai giải được lời thề chị tôi
Chị tôi giờ hết duyên rồi
Bao năm chỉ thấy gió giời trên cao
…Đời người thế cũng xong ư?
Đầu xanh mà cũng ba thu một ngày
Nói chi đến chuyện hao gầy
Chị tôi đã chết từ ngày anh đi!

Người chị trong trường ca “Ngày đang mở sáng” của Trần Anh Thái với câu hỏi “Vì sao nước mắt chị tôi rơi“, vì:

Chiến tranh hốc hác mặt người

… Con thơ đói sữa

Đêm mơ

Người lính Bắc năm xưa chập chờ xanh rớt

… Anh vẫy tay bước đi

…Nghĩa trang bên bờ sông Vệ

Trắng chùm hoa dại nở quên.

“Chị” trong thơ Trần Chấn Uy cùng số phận “có chồng đời chiến chinh có mấy đi trở lại”:

Tôi có một người chị ở làng

Lấy chồng lính giữa những ngày khói lửa

Rồi anh đi B biền biệt

Chị vẫn hằng đêm đốt lửa ngóng chờ

Ba mươi năm một mình lận đận

Chị già theo con nước đầy vơi

Và chị tôi đã sống hết một đời

Không son phấn, không ồn ào khoe mẽ

Như con vạc đồng quê lặng lẽ

Chị sớm khuya một bóng một mình

Họ là hình bóng của những số phận chịu thiệt thòi, đau khổ đáng được chúng ta cảm thông nhưng họ chưa có giá trị nào được văn học ghi nhận để nâng cấp sự hy sinh này vì không có sự hy sinh nào mà vô nghĩa.

Thế nhưng, nhân vật hai người chị trong TBH mang đức tính hy sinh chung và sự hy sinh tuổi xuân (già đi vì thời gian đợi chờ như các bài thơ, nhạc ở trên) đã được TT nâng cấp thành những đóa hoa sen thơm ngát trong đầm. Hình ảnh hai người chị trong TBH được nâng cấp như thế, nó không chỉ là hình ảnh người chị hy sinh bản thân vì đại cuộc mà nó có thêm một giá trị văn học và cuộc đời: Đó là khi người con gái, người phụ nữ “lỡ bước sa chân” vào vũng bùn lưu lạc làm gái bán hoa… quay trở về với con đường lương thiện thì họ cũng là sen trong trắng giữa bùn lầy như Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Thúy Kiều vẫn được coi trọng với “chữ trinh cũng có đến ba bảy đường” và Tố Hữu từng ca ngợi họ trong “Tiếng hát sông Hương”. TBH qua hình ảnh hai người chị đã làm được chức năng “nối liền người đọc với người đọc, xích gần con người với nhau” như các nhà lý luận Phong Lưu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa, Thành Thế Thái Bình đã đưa ra tiêu chuẩn trong sách mình. Giá trị văn học này được bổ sung từ giá trị bản thân nhân vật trong TBH, lẽ nào văn học không ghi nhận?
Ðây là giá trị nhân bản thứ nhất của thi phẩm.

2. Hình ảnh nhân vật người mẹ:

Tính cách vững vàng này của hai người chị đã làm nhân vật người mẹ an tâm mà ẩn mình với dòng nước mắt trước khóc chồng nay khóc tiễn con trai bên cạnh hai người con gái dũng cảm giữa thời chiến. Hình ảnh người mẹ này nằm chung trong tổng thể nội dung văn học về một gia đình phân ly trong một thời đại binh lửa. Thế nhưng, mỗi một nhân vật người mẹ, họ sẽ có những đặc điểm riêng mà tác giả xây dựng nên trong tác phẩm của mình.

Hình ảnh người mẹ với các giá trị văn học:

“Chức năng khái quát của nhân vật không phải chỉ là tính cách và quy luật khách quan của đời sống mà còn là quan niệm về tính cách và toàn bộ tư tưởng mà tác giả muốn thể hiện…” (Lí luận văn học, sđd tr 697).

Chúng ta thử xem, TT đã để nhân vật người ra đi trong TBH của mình quan niệm về tính cách của nhân vật mình với mối quan hệ gia đình ra sao?

Trong TBH, hình ảnh người mẹ chỉ xuất hiện ngắn ngủi với hai từ “mẹ già” và “như chiếc lá bay”:

Chí nhớn chưa về bàn tay không,

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.

… Me thà coi như chiếc lá bay.

Thi Thánh Đỗ Phủ thời thịnh Đường sống trong thời kỳ loạn lạc “An – Sử” (An Lộc Sơn – Sử Tử Minh) đã dùng ngòi bút hiện thực phê phán chế độ, lên án chiến tranh và nhận xét trong “Binh xa hành”:

Tín tri sinh nam ác,

Phản thị sinh nữ hảo.

Sinh nữ do đắc giá tị lân,

Sinh nam mai một tùy bách thảo.

(Nếu biết sinh con trai chi bằng tốt hơn sinh con gái. Sinh con gái còn có giá vì được ở gần. Sinh con trai thân mai một vùi trong cỏ dại).

Thiết nghĩ đem ý hiện thực chua chát này để lý giải tại sao người mẹ đã không có lấy một lời với con trai dù mình đang đau lòng, đứt ruột. Hình ảnh người mẹ âm thầm này trở thành hình ảnh người mẹ chung trong buổi chia biệt:

Ngày con đi mẹ gượng cười không khóc

Rồi gục đầu để giấu kín tâm tư.

(Lê Như Phò – Tâm tình gởi mẹ)

Hay Thủy Lâm Synh đau xót trong niềm tự hào:

Thưở ấy ta đi mẹ già nín khóc

Nắng của ngày mưa chết yểu sau vườn.

(Thuở ấy ta đi)

Người mẹ dù ”gượng cười”, ”nín khóc” cũng đồng nghĩa một sự hy sinh, cam lòng đáng quý trọng. Người phụ nữ được coi là phái yếu ớt giữa đời thường, nhưng trong chiến tranh, nét yếu ớt chuyển sang sức mạnh tinh thần hơn cả cánh đàn ông với khả năng có thể “đào hào, sẻ núi, lấp sông” sá chi chỉ trong một tình huống “tiễn con” lên đường phải ”dấu kín tâm tư”.

Ta hãy xem, người con trai và mẹ già đã có sự chuẩn bị tâm lý đến mức độ nào cho ngày tiễn biệt trong bài “Gốc khế” của Lê Đạt:

Khi gió mùa anh đi

Sang sông tìm nắng khác.

Để mẹ già tóc bạc

Lưng còng trên gậy tre.

…Ba năm anh không về

Ba năm rồi ba năm .

Ba năm anh không về” qua lời dẫn truyện rồi ba năm nữa cũng không. Bài thơ chưa có chuẩn bị sự tâm lý nào cho người mẹ ở lại ngóng trông với tóc bạc, lưng còng theo quy luật thời gian. Mất mát này cộng thêm tâm lý nhớ con theo năm tháng (sự không về của anh là sự hụt hẩng của mẹ). Bởi thế, gốc khế xanh kia vẫn xanh mà… chát vì vắng người xưa còn mẹ thì ”lưng còng trên gậy tre” tàn lụi vì thời gian. Ðây là hiện thực nhưng hiện thực này làm người đọc tưởng chừng như người con trai chưa làm tròn bổn phận làm con để báo đáp ”Công cha như núi. Nghĩa mẹ nước nguồn”.

Trong TBH, TT đã để nhân vật con trai (tác giả hóa thân) tỏ lòng cùng với mẹ, nói trước khả năng xấu cho mẹ trong bước đường ra đi của mình:

Chí nhớn chưa về, bàn tay không.

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.

Từ “ba năm” quen dùng như sự ướt lệ chỉ thời gian tượng trưng từ quan niệm: “Ba năm tang chế”. Điều đó có nghĩa là người sắp ra đi sẽ không hứa hẹn một ngày trở về. Sự chuẩn bị tâm lý này dẫu thật sự có trần trụi, tàn nhẫn nhưng dù sao cũng dễ chịu hơn nếu sau đó có một tin dữ của người con từ chiến khu hay từ nơi nào đó báo rằng người con đã ngã xuống. Mẹ già sẽ không nghe như “sét đánh ngang tai“, không đứng tim đột ngột bởi cú sốc bất ngờ.

Trong dòng tự sự, ngòi bút chuẩn bị tâm lý này không làm người đọc ngạc nhiên nhưng trong thi ca, bút pháp này quả thật gây cho người đọc cảm xúc pha chút bất ngờ qua từng cụm từ toàn phủ định “không bao giờ trở lại”, cũng đừng mong” mà như khẳng định: ”Con không về, mẹ đừng trông”. Cũng như trong “Xuân này con không về“, nhạc sĩ Nhật Ngân (Trịnh Lâm Ngân) đã thay lời người con trai tự nói với mình và với mẹ “Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm. Mái tranh nghèo không người sửa sang. Khu vườn thiếu hoa đào mừng xuân”. Nhưng nhân vật trong nhạc là người cầm súng giữ biên cương. Một chí khí đã có trong “chín tháng quân trường“. Còn nhân vật trong TBH, chưa có cái gì để tỏ rõ khí khái của mình cho thiên hạ tỏ, nhất là người trong gia đình. Nếu người này trong ngày mai, có một ý chí như nhân vật trong nhạc, chắc chắn anh cũng không thể “vù về” vì nhớ mẹ với lý do rất “thiêng liêng”, rất “núi sông”: “Con biết bây giờ, mẹ chờ, em trông nhưng nếu con về bạn bè thương mong. Bao lứa trai cùng chào xuân chiến trường, không lẽ riêng mình êm ấm. Mẹ ơi con xuân này vắng nhà”. Khí khái vì tình chung, quên tình riêng của anh, người mẹ sẽ là người chịu gánh sự thiệt thòi này bởi “nước mắt chảy xuôi”. Hiểu tới chỗ này, ta sẽ thấy sự hy sinh tình nhà từ phía người mẹ, người trong gia đình chứ không phải từ phía người ra đi – ly khách! Người trong tâm trạng này, nghe lời nhạc, nghe lời thơ “nếu con không về chắc mẹ buồn lắm”, tất sẽ giấu đi giọt nước mắt lặng thầm, chực rơi…

Người chấp nhận sự hy sinh đứa con và sự chịu đựng mọi sự bất trắc có thể xảy ra cho người con trai duy nhất trong gia đình mà người con đã báo trước, thông tin trước đó, người đó, chính là người mẹ có tấm lòng “bao la như biển Thái Bình dạt dào” trong tâm tưởng của nhân vật: Người mẹ trong TBH!

TT đã xây dựng nhân vật người ra đi đáp ứng “chức năng khái quát của nhân vật” như chúng ta đã thông qua ở trên. Chức năng văn học này qua suy nghĩ khái quát về hình ảnh người mẹ trong TBH không lẽ nào văn học bỏ quên?

Ðây là giá trị văn học nhân bản thứ hai của thi phẩm.

3. Tư tưởng thống nhất của nhân vật chủ thể:

Hình ảnh người chị trong các tác phẩm mà chúng ta đã điểm qua, thái độ tác giả (người em hoá thân) chỉ cực tả nỗi thống khổ, sự chịu đựng và tuổi xuân héo tàn mà không nhìn thấy giá trị ẩn dụ đẹp đẽ của sự hy sinh đó. Nhân vật người em trong TBH thì khác. Người em trước khi ra đi đã nghĩ gì về hình ảnh người mẹ và người chị của mình?

Tư tưởng người con, người em nghĩ về mẹ, chị với các giá trị văn học:

Tâm lý chia tay, ai chẳng ngậm ngùi. Nhân vật trong TBH dù nói cứng nhưng ”miệng cứng, lòng mềm”. Nỗi buồn đã bật ra vì sao?

Huy Cận trong “Tương tư” lý giải:

Hôm nay trời nhẹ lên cao

Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn.

Một cắt nghĩa nhẹ tênh, bế tắc. Huy Cận buồn không tên, không tuổi. Nhân vật người con trai trong TBH buồn có “lý lịch” hẳn hòi: Đó là buồn ngày tiễn biệt. Ngày tiễn biệt là một buổi sáng mùa hạ lý tưởng:

Sáng hôm nay;

Trời chưa mùa thu tươi lắm thay,

+ Với mẹ: Thời gian đưa tiễn đã có. Tâm lý chuẩn bị cho sự xa cách có thể vĩnh viễn này cũng đã xong. Người đi chỉ việc xách ba lô con cóc ra đi. Nhưng trước khi ra đi, những hình ảnh gia đình động lại trong mắt, trong tâm tưởng người ra đi như thế nào? Văn bản cho thấy: “Mẹ” đã “già” trong lòng con trai với sự chịu đựng mất mát đứa con thân yêu và như thế nỗi xót xa, thương yêu sẽ hằn trong tâm tưởng người ra đi. Nhân vật người con ra đi này sẽ mang tấm lòng bao la của mẹ vào hành trang lên đường.

+ Với hai người chị:

Vẻ đẹp bên ngoài có rực rỡ cỡ nào cũng theo quy luật “hoa nở, hoa tàn”, “người đẹp thường hay chết yểu”… còn cái tiết liệt bên trong mới là phẩm giá quý nhất và có giá trị vĩnh cữu của con người. Trong đôi mắt của người em trai, hai chị “đẹp người, đẹp nết” là hình ảnh khắc sâu trước giờ tiễn biệt mà em trai buột phải xa cách. Hình ảnh này sẽ mãi mãi theo người em đi xa dù lỡ mai em có thể không quay về hay thời gian có tiễn đưa tuổi xuân chị “theo con bướm nọ đi về nơi xa” nhưng với người em, hai chị vẫn đẹp tươi như những đoá sen từ thuở ly biệt. Nhân vật người ra đi này sẽ mang hình ảnh đẹp đẽ của hai người chị mình vào hành trang lên đường.

+ Nghĩ về bản thân: Một “chí nhớn“nào?

Những hình ảnh mẹ, chị, em, kỷ niệm… trong đôi mắt người sắp đi tràn đầy yêu thương. Với bao nhiêu tình yêu mến này trong gia đình mà cũng không đủ sức giữ người con trai ở lại? Sức mạnh nào thôi thúc anh đi? Lý do nào không cắt nghĩa nổi? Anh ta ra đi vì cái gì? Vì sao muốn ”đi một bước xa lìa phố cũ?”.

Ta xem xét văn bản: Người con trai quyết lòng ra đi với cái “chí nhớn”, “đỉnh thiên lập địa” có phải thật sự là lý do chính:

Chí nhớn chưa về bàn tay không,

Thì không bao giờ nói trở lại!

Chí nhớn” từ miền Bắc như ”chí lớn” từ miền Nam. Có nhiều bản ghi ”chí lớn” không sai nghĩa nhưng giữ ”từ địa phương”, giữ nguyên văn bản là một cách coi trọng tác giả và để phân biệt tác phẩm ra đời cựu hay tân. Văn bản khác ghi ”Chí nhớn không về, bàn tay không” nghĩa là có hai từ ”không” tạo thành ”phủ định của phủ định” là khẳng định: ”Không còn mơ ước gì nữa cả” tạo ra một cảm giác thất vọng giết mất sức sống của ý thơ. Chọn từ ”chưa về” là hợp lý với ý còn hy vọng cho câu thơ tươi sáng vì chí lớn chưa về chứ không phải không về.

Ý ra đi không hẹn ngày về nằm ở câu ”Ba năm mẹ già cũng đừng mong” và nằm trong hai câu trên.

Ca dao có câu:

Làm trai cho đáng nên trai

Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.

Thiết tưởng đây cũng là phương cách sống của tất cả những người con trai không phải chỉ riêng gì những người trai thời loạn. Cái chí làm trai trong ca dao gặp “Chí nam nhi” của Nguyễn Công Trứ như cá gặp nước:

Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc

Nợ tang bồng, vay trả, trả vay .

Chí làm trai nam bắc, đông tây

Cho phỉ sức anh hùng trong bốn bể.

Ngẫm ra, kẻ mang nặng ”chí làm trai” chưa thấy múa may gì cho ra hồn nhưng khẩu khí khẳng khái thốt ra như vậy cũng hiếm thấy kẻ có “sức anh hùng” như thế cả. Chí khí này gặp cái trí mài gươm giết Trương Phụ của Đặng Dung: ”Tẩy binh vô lệ vãn thiên hà” hay làm một Phạm Hồng Thái với tiếng bom Sa Diện? Hoặc muốn như Mã Viện:“Đại trượng phu dương tử ư cương trường, dĩ mã cách khỏa thi nhĩ” (da ngựa bọc thây) mà Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ nguyện với lòng: “Tuy dư chi bách thân cao ư thảo dã, dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách, diệc nguyện vi chi (Trăm thân phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm).

Có ngoa, cũng như một Tào Thực với “hùng tâm tráng khí” ủ mộng “hưng quốc”: “Bắt Tôn Quyền, xẻo tai Gia cát Lượng, dù cho thân bị phanh ở bờ cõi Thục, đầu có bị treo ở cổng thành Ngô cũng coi như còn được sống”.

Ngay cả người con gái Triệu Thị Trinh năm nao lại “cỡi luồng sóng dữ quét quân thù chớ không chịu thân nô tì cho người ta”. Huống hồ nam nhi sống trong trời đất không bắt chước Kinh Kha sang Tần, Dự Nhượng nuốt than, Kính Đức liều mình, Triệu Tử Long cứu chúa, Đặng Dung mài gươm, Phạm Ngũ Lão đan sọt… thì làm cái gì nữa!

Nhưng hỡi ơi! Chí lớn có con đường thênh thang mà cuộc đời có còn cái thời đại ”oanh oanh liệt liệt” cho người dấn thân vào chốn ”giang hồ” để làm những việc hữu ích ”quang tông diệu tổ?”. Bức tường ”Quan Trạng đi trước võng vàng theo sau” đổ nhào tự bao giờ trong Nguyễn Bính nói riêng và trong tầng lớp chờ mong ”danh đề bảng hổ”!

Người con trai trong TBH có biết thế không? Nếu biết mà vẫn chọn con đường ra đi thì thật là kẻ liều mình, gan dạ! Nếu không biết mà cứ dấn thân thì càng cần có một bản lĩnh. Người con trai trong TBH đã có một ”bản lĩnh” nào nếu không nói cái bản lĩnh ấy được kế thừa từ trong gia đình kiên cường? Cuộc chia tay không hẹn ngày về với cái chí lớn đó đã vẽ ra hình ảnh một “ly khách” trong đầu người con trai có bản lĩnh này:

- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ,

Hai tiếng kêu thầm như nhắc nhở bản lĩnh này qua cái gạch đầu dòng dành riêng cho ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. (Có văn bản bỏ dấu ngang (-) nên từ “ly khách” biến thành lời dẫn suông mang tính cách miêu tả).

Hai tiếng kêu đó còn mang ý tự cảm thán. Con ve sầu lột xác hay tằm hóa bướm khi hình ảnh nam nhi bắt đầu khoác chiếc áo “ly khách”? Nam nhi chi chí là người vẫy vùng ngang dọc trên con đường nhỏ nhưng ”ly khách” là kẻ mang trong mình một trách nhiệm hẳn hoi mới kèm theo“chí lớn”. Đem “con đường nhỏ” của nam nhi đối lập với “cái chí lớn” của ”ly khách” trong câu thơ với ý thật khập khểnh bởi vậy mới kêu lên chua chát: ”- Ly khách! Ly khách!” (Kẻ bỏ quê! Kẻ bỏ nhà!). Nhưng TBH đã có người mẹ chịu đựng mất mát giỏi, có chị tháo vát, tiết liệt thì kẻ làm con, em trong một gia đình như thế không lẽ buông tiếng kêu não lòng? Vì vậy mà hai câu thơ trên được hiểu: ”Ly khách” đi với ”chí lớn” còn ”con đường nhỏ” đi với ”bàn tay không”.

Chí lớn phải được đi trên con đường lớn. Nếu đi trên con đường nhỏ thì kết quả chỉ có bàn tay không. Cho nên, người sắp ra đi phải cần có một thái độ biểu hiện mình không thua kém mẹ, chị mới kêu lên đầy khí phách qua dấu ngang đầu dòng: - Ly khách! Ly khách! (Người đi oai phong! Người đi oai vũ!). Tiếc thay cho kẻ có hoài bão lớn lao mà chưa biết đi đâu? Về đâu? Làm gì như một lớp thanh niên thời loạn. Trần Chấn Uy… uy vũ rã rời mà còn “gân cốt”: “Không có kiếm thì chống gậy”. Nhưng cuối cùng “Ngửa mặt một tiếng cười” than thân: “Trượng phu chống kiếm đi về đâu?”. Một NB “chân quê” “Hành phương Nam“, hiên ngang tráng sĩ:

Giày cỏ gươm cùn ta đi đây…

Ta đi nhưng biết đi về đâu chứ?

Đã dấy phong yên lộng bốn trời.

Con người “giày cỏ, gươm cùn” hào khí y chang con ”võ sĩ bọ ngựa” của Tô Hoài mà cũng dám tỏ mặt anh hùng với bốn phương. Lời thơ cuồng nhưng gan dạ. Khá khen thay những kẻ dám “múa lưỡi đánh tan bao kẻ sĩ”. Nhưng mộng kia chưa chín đã rơi:

Hôm qua không có, hôm nay mất

Ai rú trong trời tám hướng sương.

Vũ Quần Phương đã nhận xét câu thơ trên trong bài “Không đề” của TT: “Thân kiếp chơi vơi trong cõi phi thời gian, dĩ vãng không có, hiện tại cũng không mà tương lai thì mù mịt sương khói? “Con đường nhỏ” như vậy làm sao mà thành cái ”chí lớn” đây? Cuối cùng, chí nào cũng rơi vào u uất như Ðặng Dung trong ”Cảm hoài”:

Thời lai đồ điếu thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.

(Gặp thời kẻ bần cũng thành công. Ngẫm đắng cay khi anh hùng lỡ bước). “Con đường nhỏ” cũng rớt vào ”lỡ bước”, cái ”chí lớn” cũng rơi vào nỗi “cảm hoài”! Vậy mà người con trai trong TBH dám mang cả hai vừa muốn làm kẻ ”nam nhi” vừa muốn được ghi danh “tráng sĩ” qua từ ”ly khách” dẫu biết rằng: ”Ra đi là sự đi liều. Quản chi nắng sớm, mưa chiều cực thân”.

Lời nguyện giữ vững ý chí cũng đã thốt ra từ người sắp ra đi mặc cho con đường mình đi đầy chông gai mà vẫn gan góc thề trong TBH:

Chí nhớn chưa về bàn tay không,

Thì không bao giờ nói trở lại!

Như trong “Tráng sĩ hành“:

Đã bước chân ra khôn hẹn kỳ,
Đời người bất quá vị tri kỷ,
Sống, chết, nên, chăng, ai sá chi!
Túi áo xênh xang ba tấc kiếm,
Bụi hồng rong ruổi đôi bánh xe.
Ngoảnh lại thành Yên đầy uất khí,
Thấu lòng hoạ chỉ người tương tri
Tức chấp nhận bão giông trong cuộc đời đón chờ phía trước. Người con trai này có phong cách nam nhi chi chí vẫy vùng biển khơi. Phân tích nhân vật là phải xem xét nhân vật “trong chỉnh thể thống nhất toàn vẹn… Nghĩa là phải xem xét nhân vật như một chỉnh thể đa dạng do nhiều yếu tố khác nhau hợp thành… Nội dung nhân vật là tính cách. Tính cách được triển khai qua hàng loạt những thuộc tính, đặc điểm. Phân tích nhân vật phải tìm hiểu những đặc điểm ấy” (Phân tích nhân vật, Lí luận văn học, Nxb GD – 2006).

Với nhân vật người ra đi – người con trai trong TBH, những thuộc tính cương quyết, đổi buồn chia ly bằng hành động trong tương lai và đặc điểm rất thương yêu mẹ (nói cho mẹ tình huống thực để mẹ khỏi bất ngờ), nâng niu hai người chị (chị vẫn đẹp như những đóa sen dù có là sen cuối mùa). Chính thuộc tính và đặc điểm này, TT đã xây dựng nhân vật nam trong thơ là một con người trước sau như nhất một nét đặc biệt mà thời đại nào, thanh niên cũng soi thấy mình trong đó.

Nhìn thấy bản chất phức tạp của sự việc, nhìn thấy được những phẩm cách đẹp đẽ ẩn sâu của từng người thân, cũng như nhìn thấy hết mối quan hệ nội tại (bên trong tác động) và ngoại tác (bên ngoài tác động), nhân vật này đã không còn là nhân vật tầm thường ra đi vì miếng cơm manh áo, ra đi vì tiếng đời ô trọc, ra đi vì chán ghét thế thời mà nhân vật này lên đường trong hành trang có chứa những tấm lòng vàng. Những tấm lòng vàng này sẽ là nguồn động viên lớn nhất cho người ra đi từ ra đi từ mục đích cá nhân tiến lên ra đi vì có cả người thân mình trong đó. Vậy, sự ra đi sẽ có chủ đích (chí lớn), có điểm tới trong nhân thân “ly khách”. Hướng xây dựng tâm lý nhân vật từ thấp lên cao, từ mục đích tầm thường lên mục đích cao cả, tình tình cảm riêng tư phát triển đến tình cảm tập thể, từ vô mục đích cho tới có mục tiêu là một cách xây dựng nhân vật điển hình. Giá trị này của nhân vật ra đi trong TBH, không lẽ nào, văn học không đóng dấu son?

Ðây là giá trị văn học nhân bản thứ ba của thi phẩm.

4. Thi pháp “chuyển nhượng nhân vật” xuất sắc:

“Nắm bắt nguyên tắc tổ chức mâu thuẫn là chìa khóa để phân tích nhân vật như một chỉnh thể vận động… Mâu thuẫn được xem như cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập luôn luôn loại trừ nhau không thể cùng nhau tồn tại trong một thực thể…” (Lí luận văn học, sđd tr 703).

Lý luận có vẻ “đao to búa lớn” như thế nhưng thực tế, loại hình thi ca, những “mâu thuẫn đấu tranh” coi như được sự mềm mỏng, ngọt ngạo của thể loại văn vần này “xén” bớt và hóa giải. Nhưng TBH của TT là tác phẩm mâu thuẫn: Mâu thuẫn trong các chi tiết. Mâu thuẫn từng nhân vật mà điển hình là hình ảnh người “Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc” và “Em thà coi như hơi rượu say” đang hỏi chúng ta là hình ảnh người em gái hay người yêu? Chỉ rõ? Mâu thuẫn này không đấu tranh để loại trừ mà song song tồn tại. Những mâu thuẫn song song tồn tại trong TBH là nét đặc biệt nhất của tác phẩm. Nét đặc biệt độc đáo này, chưa thấy một tác phẩm văn vần nào đạt tới giá trị tột đỉnh như TBH.

Chúng ta xem mâu thuẫn khó hiểu trong TBH qua hình ảnh người “em” và “em nhỏ”, TT giải quyết như thế nào? Chúng tồn tại với nhau hay loại trừ nhau?

Hình ảnh “em nhỏ”, “em” và “chiếc khăn tay” với những giá trị văn học:

+ “Em nhỏ”:

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…

Nếu nói hình ảnh người mẹ già sẽ lặng nhìn con đi với nét tâm lý sẵn sàng chịu đựng “ba năm tang chế” lỡ con không về và hình ảnh người chị cao cả, thanh khiết, bất khuất, đẹp đẽ là hình ảnh mà người em trai không quên thì hình ảnh cuối cùng trong thi phẩm là hình ảnh nguời “em nhỏ”:

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay

Marcus Tullius Cicero có nói tới “Khuôn mặt là chân dung của tâm hồn, còn đôi mắt là để diễn tả” như dân gian ta có câu: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”.

Mắt em nhỏ không phải là đôi mắt mà thi ca đắm say:

Mắt em là một dòng sông

Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.

của Lưu Trọng Lư trong ”Trăng lên” cũng không phải là ”mắt xoe tròn thương thương quá đi thôi” mà Giang Nam đã dùng trong ”Nghe em vào đại học” . Đây đây đích thực là một người em gái nếu văn bản chỉ dùng một từ ”em nhỏ” trong câu “Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc”.

Hữu Loan đã từng dùng “em nhỏ” là đứa em gái của nhân vật “chị” trong “Màu tím hoa sim”:

Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí

Có thể chăng là “em nhỏ” trong “Bài thơ hạnh phúc” của Bùi Minh Quốc:

Em nhỏ giao liên, mẹ hiền trụ bám
Cô du kích dịu dàng dũng cảm
Sông Thu Bồn hằng xao động tâm tư
Có tiếng hò như thực như hư.

Cách hiểu coi ”em nhỏ” trao anh trai ”chiếc khăn tay” như tình anh em hay người yêu cũng đều là không đúng tâm lý.

Lúc này, ta mới thấy giá trị của từng câu chữ, từng cách dùng từ chính xác, tinh xảo, hoàn hảo của TT qua từ ”Em nhỏ” (em giao liên, em bán cốc, em đi cày… ) chuyển thành ”Em” với hai nghĩa khác hoàn toàn và đáng được có trong thi phẩm.

Ta đi theo cách loại bỏ những từ chưa thích hợp dưới đây: Văn bản khác ghi: ”Em nhỏ ngây thơ đôi mắt ướt”. ”Mắt ướt” có những nghĩa: Mắt lúc nào cũng ướt (bệnh chảy nước mắt gọi là Mục phong lệ xuất hay Nghênh phong xuất lệ). “Mắt ướt” có nghĩa khác là mắt huyền, mắt mơ. “Mắt ướt” trong dị bản trên có thể hiểu là “em nhỏ” cũng… khóc. Từ này dùng vẫn được trong câu thơ với ý không đổi bao nhiêu nhưng giá trị nghệ thuật (cách vận dụng vần) trong câu thơ sẽ bị triệt tiêu bởi vì ”mắt ướt” không đi với “thuơng tiếc” mà chỉ có “mắt biếc” đi với “thương tiếc” làm câu thơ mặn mòi, nổi bật về nội dung ẩn dụ, già dặn nghệ thuật gieo vần ”iếc”.

Dựa vào “sen nở nốt” với “em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc” trong ”Giời chưa vào thu”, người đọc có thể hình dung độ tuổi của họ trong gia đình: Họ san sát nhau, không thể già hơn một mùa sen đang nở tàn, không thể vàng hơn một mùa thu rụng lá sắp tới. Người sắp ra đi đang độ tuổi học trò. Có day dứt, bâng khuâng, quyến luyến gì với gia đình dù không có sự đưa tiễn của người cha thì người trong cuộc vẫn phải ra đi. Có nhiều cách đưa tiễn khác nhau nhưng cách nào cũng làm người tiễn nhỏ lệ và người đi mủi lòng. Em nhỏ nào biết gì mà cũng khóc! Thế giới của sự chia ly không phải là thiên đường của tuổi thơ. Vậy sao không dùng chiếc đũa thần kỳ của bà tiên mà cho nó “biến”? Nhưng nhân vật trong thơ chứ đâu phải nhân vật trong thể loại tự sự mà tác giả cho ai sống thì nhân vật đó chẳng thể nào chết! Biến đổi như thế nào cho phù hợp đây? TT dùng phép thuật phù thủy hay bà tiên?

Trong TBH, hình ảnh “em nhỏ” coi như người em gái đã được tác giả dùng phép… nội tâm chính mình thay “em nhỏ” bằng hình ảnh một người “em” khác mang sắc thái một mối tình. Em nhỏ đang ngây thơ, làm sao nỡ để em nhập vào sự chia tay đầy nước mắt của mẹ, hai chị và của chính mình? Do đó, nó xuất hiện khi cần thiết “ngây thơ đôi mắt biếc” nhìn anh sắp ra đi mà thôi. Người anh sẽ mãi nhớ người em gái với đôi mắt biếc ngây thơ này. Vai trò của em gái đến đây là hết để thay thế bằng nhân vật khác. Đấy là cách chuyển nhượng đúng lúc, đúng tâm lý và đúng với tiếng lòng. Thi nhân nếu không trở về với cái thực của nội tâm, những dòng thơ tiếp theo sẽ rơi vào mênh mông sa mạc. Ai thưởng thức dòng thơ sa mạc bao giờ!

Sự chuyển nhượng, thay đổi nhân vật cũng như trong dòng nhạc, nhạc sĩ thỉnh thoảng chuyển từ giai điệu này sang giai điệu khác. Ví dụ trong bản “Đêm đông” của Nguyễn Văn Thương, phần điệp khúc đã chuyển sang một “key – khóa” khác “key – khóa” đầu nhưng tổng thể vẫn hòa hợp nên nó vẫn là một trong những tác phẩm của những người “chinh phu, thi nhân, ca nhi” trong đêm đông với một “giấc mơ, gia đình, yêu đương” bất hủ. Người nghe thẩm thấu được “lòng cô lữ đêm đông không nhà” chính là nhờ sự “chuyển nhượng” tiết tấu tài tình này.

TBH đã gắn thi ca và loại hình 7 nốt vào cung bậc thăng giáng tuyệt vời! Đây là một thi pháp lạ đáng ghi nhận trong thi pháp văn học.

Nhân vật “em” của nhân vật trong thơ xuất hiện trong TBH theo cung bậc thăng (sharp) hay giáng (flat) nào?
+ “Em”:

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay

TT trong trạng thái ban đầu đã chủ ý dựng lên hình ảnh các nhân vật mẹ, chị, em trong gia đình vào ngày đưa tiễn. Thế nhưng, cảm hứng chủ đạo buổi chia tay bình thường trong gia đình đã tự bộc lộ ra nỗi niềm riêng một đời giấu kín, một mối tình riêng, một thời câm nín. Ta dùng “một thời” ở đây vì TT đã mang nỗi lòng này gởi vào thi ca. Thơ là nơi ẩn nấu, là tiếng lòng của những tâm hồn đau thương, bất hạnh của tình đời, tình trường. Tiếng lòng của TT, của nhân vật trong ngày đưa tiễn với từ “em nhỏ” đã chuyển sang từ “em“. Trong thơ, có những cái vô tình khách quan tạo nên giá trị bất hủ cho câu thơ.

Ví dụ bài thơ “Trưa hè 2″ của Nguyễn Bính có câu:

Thương con lại nhớ lời chồng

Lấy thân làm bức thành đồng cho con.

Khi đưa bài in, người thợ sắp chữ “không biết vì có tài thẩm thơ xuất chúng – hay chỉ là đơn giản vì lầm chữ đã xếp thành Lấy thân làm bức thành đồng che con’”(Nguyễn Hữu Đảng). Vô tình chữ “che” đã biến bài thơ có câu kết đầy ý nghĩa.

Với TBH, bỏ đi từ “nhỏ” trong “em nhỏ” không phải do thợ sắp chữ nhầm hay người nào nhúng tay sửa chữa mà chính là TT đã cắt đi. Đây không phải là sự vô tình. Mâu thuẫn này đã trở thành mâu thuẫn thống nhất trong sự phân vai nhân vật của tác giả.
Trong dòng thi ca, thi nhân dùng cho người yêu bằng từ “em gái, em tôi”. Hữu Loan trong ”Màu tím hoa sim” da diết: ”Tôi là người vệ quốc quân yêu nàng như tình yêu em gái” và Xuân Diệu trong ”Đơn sơ” đã “mắng nhiếc”… yêu:

Em tôi ăn nói vô duyên quá

Em giết tình anh có biết không?

Từ ”mắt biếc” nếu đứng riêng sẽ là một hoán dụ chỉ người yêu như trong ”Nhớ anh” của Nhật Quang:

Thu tiễn hạ trời buồn da diết

Nhớ anh yêu, mắt biếc đợi chờ.

Nguyễn Nhật Ánh đã dùng hai từ “Mắt biếc” để đặt tên cho truyện ngắn của mình năm 1990. Mắt biếc của Nhật Ánh là cô bé tuổi đáng bằng cháu là Trà Long kiểu “đừng gọi anh bằng chú nghe em” rực sáng một tình yêu bất ngờ, thơ ngây và chia tay trong khoảnh khắc.

Trần Quốc Hoàn trong “Lời yêu thương” (vietnamsingle.com) xúc động:

Mắt em biếc cho chiều thu xanh biếc

Má em hồng cho rực rỡ nắng mai.

… Gió mỉm cười chúm chím cả làn môi

Cho tình thu dâng đầy trong mắt biếc.

Bích Khê trong “Đây bản đàn thơ” đã say sưa:

Đây bản đàn thơ rất xốn xang
Là đôi mắt biếc của mơ màng
Màu thu lướt mướt trong làn sóng
Run rẩy căm hờn nức nở than.

Một Du Tử Lê trong “Đời ở mãi phương Đông” an ủi bằng ngợi ca:

Em đừng tủi bởi nếu cần khi ấy
ta dùng tay để tìm lấy thềm nhà

thông héo gầy bởi thông nhớ nhung ta
chim sẽ rủ nhau về đôi mắt biếc

Ít ai dùng chữ “em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc” để ám chỉ người yêu.

Nhưng trong một câu thơ mà có một từ, hai nghĩa: Một người, một mắt vừa là em gái vừa là người yêu, ta nên hiểu cách nào hợp lý đây? Ta lại phải cầu cứu vào quy luật thơ.

Ca dao thì hay dùng ”Phú. Tỷ. Hứng” (Diễn tả. So sánh. Cảm xúc): Trên nói bâng quơ, dưới mới vào ý chính:

Trời không mây như cây không gió

Mắt ai sầu, anh ngó, anh thương.

Thơ ca thường thường hai câu đi với nhau tạo thành một nghĩa. Câu trên mở, câu dưới kết. Trong câu: ”Em nhỏ/ ngây thơ/ đôi mắt biếc” là câu mở cho ”Gói tròn/ thương tiếc/ chiếc khăn tay…” là câu kết.

”Em nhỏ” cộng với tính từ mức độ “ngây thơ” thêm “đôi mắt biếc” chia đủ ba cụm không dư một từ đủ thấy tác giả thật khéo léo đưa hình ảnh trên đối với hình ảnh dưới là “chiếc khăn tay”.

Nhưng ”Em nhỏ” có biết gì đâu mà ”thương tiếc chiếc khăn tay”? Giả dụ, ”em nhỏ” tặng cho anh chiếc khăn thì cũng đến mức độ “lưu luyến” người anh đi xa thôi như ta phân tích ở trên.

Từ ”thương tiếc” chỉ dùng trong văn tự như điếu văn hay trên vòng hoa cho người khuất bóng và thường được trang trọng ghi ”vô cùng thương tiếc”…

Trong văn thơ, từ này cũng được sử dụng cho những gì đã qua trong quá khứ và là kỷ niệm sâu sắc lắm. Nếu kỷ niệm được ”gói tròn” trong ”chiếc khăn tay” thì em nhỏ chỉ là người trao cho anh trai chiếc khăn của anh với ai đó mà anh vô tình hay cố tình bỏ quên.

Có thể hiểu từ ”thương tiếc” là tiếc nuối cho một kỷ niệm dễ thương nhưng đã mất thật rồi. Xuân Diệu nhìn áo nhớ người “mắc lên móc đó cho mình nhớ thương“. Nguyên Sa nhìn “áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc, áo nàng xanh, anh mến lá sân trường”. Tức là nhìn áo nàng màu gì thì yêu cha màu đó rồi về tương tư. TT nhìn chiếc khăn tay kia tất sẽ nhớ lại kỷ niệm. Kỷ niệm đầy ấp rứt bỏ sao đành! Khăn nếu được tặng thì người nhận sẽ vui sướng dù là chia xa, không ai nhận tặng vật mà lòng ”thương tiếc”. Tiếc cái gì kia chứ? Mất rồi, xa rồi cái gì đó thì ta mới tiếc chứ? Vậy thì… đã hết thật rồi đó một chữ ”tình” bỏ ngõ… trong ca dao:

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất.

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt trên vai.

Em nhỏ sao lại trao cho anh mình chiếc khăn “thương nhớ ai” này?

+ Ý nghĩa “chiếc khăn tay“?

Trong thi ca, ngoài đời, tiễn bạn thường rót rượu cho nhau:

Mời anh cạn hết chén này

Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay.

(Lưu trọng Lư – Giang hồ)

Mượn rượu tiêu sầu để thời gian ngắn lại thật lời thơ hiếm có xưa nay. Thơ Đường có Ôn Đình Quân trong “Tống nhân đông du” mời rượu cho bạn:

Hà đương trùng tương kiến,

Tôn tửu úy ly nhân.

(Bao giờ gặp nhau lần nữa, chén rượu này mời kẻ đi xa).

Chuyện tiễn đưa bên chén rượu dài đến say mèm không nói hết, nói tới chết cũng không thể hết lời.

Sao TBH ngày tiễn biệt không có chén rượu nào? TT thiếu sót hay vì người tiễn đưa chỉ là những người phụ nữ? Hai người bạn đàn ông tiễn nhau nếu không có chén rượu thì cuộc tiễn mất vẻ khí phách nam nhi và thi ca mất hương vị say độc đáo qua chén rượu làm kỷ niệm.

Loại bỏ giả thuyết chén rượu này thì trong thi phẩm chỉ còn chút kỷ niệm là một ”chiếc khăn tay”. Thi phẩm có nhiều cái rắc rối, mơ hồ, khó hiểu trong đó có hình ảnh ”người em nhỏ” và ”chiếc khăn tay” này.

Theo Hoàng Tiến (bài đã dẫn) và dân gian, buổi tiễn đưa này là TT tiễn Phạm Quang Hòa có Huyền Trân, mẹ già, hai chị (một chị dâu con ông bác của Hòa, một chị là bạn người chị dâu). Cô bé là cô hàng xóm tặng chiếc khăn tay có thêu thêm hai chữ Y.A. (tên hay từ “yêu anh” không rõ!) mà trong ”Những kỷ niệm về quê hương” của NTK cũng có nhắc tới.

Đời cần cụ thể. Thơ văn không nhất thiết phải cụ thể như thế vì sẽ làm mất chất lãng mạn của thi ca, nhân vật sẽ không còn mang giá trị thẩm mỹ dù nét thẩm mỹ đó bắt nguồn từ hiện thực và được hư cấu theo từng loại thể.

Ví dụ để nói về ”chiếc khăn tay” - kỷ vật của tình yêu, trong “Hương thầm”, Phan Thị Thanh Nhàn đã từ sự thật một cửa sổ ở làng Yên Phụ mà đứa em trai với người yêu học trò của nó để hư cấu một cô bé:

Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay

Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm.

Bên ấy có người ngày mai ra trận

Bên ấy có người ngày mai đi xa…

Cái “ngập ngừng”, thẹn thùng ấy đầy nữ tính sao quá đổi dễ thương nhưng cô gái này ở thời điểm 1972 hiện đại hơn “em nhỏ” trong TBH hơn mươi năm nên cô gái của ”Hương thầm” bạo dạn hơn. Cô dám sang tận nhà hàng xóm tiễn người!

Trong TBH, người tiễn ”Em” hình như… thụ động và có chút… không rõ ràng. Tại sao? Vì “em” này là nhân vật trong tâm tưởng chứ nào nhân vật của nhân vật trong thơ hay của TT. Nhân vật đứa em trai của hai người chị trong thơ đang nhìn chiếc khăn tay mà nhớ lại kỷ niệm đây. Bởi vậy mà người đi mới nghĩ về “người ấy” trong một nỗi đau chia xa, như một sự tan vỡ của “Hai sắc hoa Ti-Gôn” mà đành lòng thở dài, chua xót khi đẩy hình bóng và đôi mắt người xưa này ra khỏi lòng: “em thà coi như hơi rượu say”.

Nhân vật phát sinh cuối cùng đã đưa người về huyền thoại hoa Ti-Gôn bằng đôi cánh “chiếc khăn tay” – dấu tích một cuộc tình đã mất!

Thi pháp chuyển nhượng nhân vật độc đáo này trong TBH: Hiện tại: “Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc” về quá khứ: “Em – người yêu với chiếc khăn tay - một cuộc tình” tới tương lai: “Em thà coi như hơi rượu say“: Phải đành quên để làm lại cuộc đời.

Trần Anh Thái trong “Ngày mai mở sáng” đã xây dựng các nhân vật mẹ, chị, em, người lính, má Mừng… qua 3 chiều thời gian độc đáo suốt một bản trường ca 107 trang! Cũng ba chiều thời gian, TT tái tạo nó chỉ trong… ba câu thơ. Đây là sự “phá kỷ lục” hiếm thấy trong thi ca cho một cuộc tình đã mất. Nó đã có trong TBH. Giá trị thi pháp này không đáng cho văn học ghi nhận sao?

Đây là giá trị văn học nhân bản thứ tư của thi phẩm.

4. Những giá trị văn học ẩn hình:

+ “Chiếc lá bay. Hạt bụi. Hơi rượu say” với giá trị văn học:

Ngôn ngữ văn học và ngôn từ văn học “ly khách” còn nhiều tranh cãi giữa hình ảnh ”ly khách” qua ngôn ngữ và hình tượng ”ly khách” qua ngôn từ lại gặp nhau ở ba câu:

Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say.

Dòng thơ trữ tình bắt nguồn từ hiện thực nào cũng mang đôi cánh lãng mạn. Trong sự chia xa bao giờ cũng nhận thương đau cho cả hai phía. Trong TBH, đau thương ấy đã được chấp cánh bởi ngôn ngữ văn học: ”chiếc lá bay, hạt bụi, hơi rượu say”. Từ ngôn ngữ văn học này, người đọc sẽ thấy được nghĩa tạo hình đó có giá trị nhất định trong từng cụm từ trên và khi chúng đứng hẳn trong một câu thơ sẽ tạo ra hình tượng mang tính chất trừu tượng làm nhức đầu người đọc với hình ảnh:

- “Chiếc lá bay” kia thả hồn như một cuốn chuyện phim ”Cuốn theo chiều gió” (Gone with the wind) của nữ văn sĩ Mỹ Margaret Mitchell và như “diệp lạc tiêu tiêu” – lá rụng từng cơn của các nhà thơ Đường. Nó còn như “Chiếc lá cuối cùng” bay xa của Vũ Thành An trong nhạc và vô định như ”Con thuyền không bến” của Đặng Thế Phong.

- “Hạt bụi” kia cũng tan trong cõi vô hình ẩn ý cho một kiếp “phù sinh tử táng mấy lâm hồi”’ của Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ. Nó như “cát bụi trở về với cát bụi” của Phật giáo cùng đồng nghĩa “hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi” của Trịnh Công Sơn.

- “Hơi rượu say” mang dư vị mơ hồ, cảm giác phù phiếm, ảo mộng, trôi tan trong “Xuân nhật túy khởi ngôn chí” của Lý Bạch và như ‘’say” cuồng của Vũ Hoàng Chương.

Ba câu thơ rạch ròi không thể đổi khác. Chủ ngữ “mẹ, chị, em” chi phối vị ngữ là cụm động từ “thà coi như” với giá trị nhất định. Nếu ta bỏ động từ “coi” hay trợ từ so sánh nổi “như“:

- Mẹ thà như chiếc lá bay > mẹ thà chiếc lá bay, vô nghĩa.

- Chị thà như là hạt bụi > chị thà là hạt bụi > nghĩa khác với sự khẳng định của chủ ngữ là người chị chấp nhận mình là hạt bụi như một sự thua cuộc.

- Em thà như hơi rượu say > em thà hơi rượu say, vô nghĩa.

+ Giá trị ngữ pháp của hư từ “Thà”:

Như vậy, xét về phương diện ngôn ngữ, từ ”thà” chỉ là từ kết nối giữa chủ ngữ với vị ngữ. Giá trị của nó khi đi với chủ ngữ thì không rõ nghĩa.

Ví dụ trong TBH, không thể hiểu nếu chỉ viết: ”Mẹ thà. Chị thà. Em thà” + với danh hay cụm danh từ.

Nhưng hư từ “thà” cần thêm một động, tính từ nữa đi kèm thì lại có nghĩa.

Ví dụ câu châm ngôn: “Thà chết vinh hơn sống nhục“.

Hay:

Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.
Tần đế còn nhường danh họ Lỗ,
Hán vương đâu biết bệnh thầy Trương.
Thôi thôi đã vậy thôi thà vậy,
Một túi kiền khôn mặc mở mang.

(Minh nguyệt thanh phong - Nguyễn Đình Chiểu)

Chúng đi theo nghĩa chán ghét cái gì đó nên mới chịu… “thà”…trong tình thế bị bắt buộc.

Ba câu trên nếu bỏ đi từ ”thà” thì giá trị câu trở thành câu so sánh suông: ”Mẹ coi như chiếc lá bay. Chị coi như là hạt bụi. Em coi như hơi rượu say” dẫn đến sự hiểu hai cách: ”Mẹ, chị, em coi con, em, anh mình như chiếc lá bay, hạt bụi, hơi rượu say” và người sắp ra đi coi mẹ, chị, em mình cũng như vậy.

Trong TBH, khi TT dùng từ ”thà” đứng trước động từ so sánh (như) có danh từ (chiếc lá, hạt bụi, hơi rượu) làm bổ ngữ thì chúng lại có ý nghĩa như một tự nguyện mình hy sinh thành cái gì đó tốt đẹp.

Ví dụ: ”Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá” (Nguyễn Tất Nhiên) hay trong câu nói bất hủ của Trần Bình Trọng: ”Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Hoặc trong “Thà như ngày thơ ấu. Hai đứa cầm tay đi” của Nguyễn Nhật Ánh.

Trong TBH, cụm động từ “thà coi như” không thể bỏ mất một từ nếu không, câu thơ chẳng còn mang phép tu từ điệp ngữ ”thà coi như” mà chỉ còn mỗi điệp từ ”coi như”. Giá trị tu từ của từ “thà” đứng riêng hay nằm trong văn bản đều mang bản sắc “đi không đổi tên, ngồi không đổi họ”. Khi một tác giả dùng từ ”thà” trong tác phẩm, “coi như” họ, hay nhân vật họ dựng đã chịu ”lùi xuống”. Lui xuống không có nghĩa là thua cuộc.

Hư từ “thà” trong TBH đã được hiểu từ trước tới nay theo nghĩa nào?

Coi “thà” như “nhát dao” như một số nhà nghiên cứu là hơi quá nghĩa hy sinh, hơi chút tàn nhẫn. Coi “thà” như sự hy sinh một cách “bất hiếu” cũng hơi quá lời. Đằng nào cũng làm cho người con trai ra đi thêm “trọng tội” theo cách hiểu:

Người ra đi không về kia coi như là “chiếc lá bay” trong lòng người mẹ, là “hạt bụi” trong mắt người chị, là “hơi rượu say” trong lòng người em. (Dừng lại chỗ này: ”Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc” kia sao có thể hiểu hết ý nghĩa một ly rượu cuộc đời. Say tình, say đời không thể dùng cho “em nhỏ). Tạm thời hiểu theo nghĩa suông theo sự chọn lựa của mẹ, chị và cả trong ý nghĩ của người con tức là cả hai cũng nghĩ, cùng chọn lựa hóa thân tốt đẹp:

Mẹ là chiếc lá bay trong lòng con trai.

Chị là hạt bụi trong lòng em trai.

Thử nghĩ:

Chia tay với đứa con trai mà coi như nó mất hẳn (chiếc lá bay) thì đời còn gì ý nghĩa gia đình con cái thánh thiện? Vì thế, giữa kiếp sống người thân với sự chia lìa đau đớn so với chiếc lá bay vô tư của cỏ cây, người mẹ không muốn mất con thì …“thà” chọn kiếp vô tư của cỏ cây. Nhưng cỏ cây nào phải vô tình. Chính vì vậy, ta mới thấy có cụm từ “thà coi như” với hình ảnh “chiếc lá bay” của người mẹ cuốn theo bước chân người con trai. Đây là tu từ “vật hóa”. Ở đâu chẳng có màu xanh. Ở đâu chẳng có nắng hanh ngập lòng? Vậy, hình ảnh của mẹ hóa thân vào chiếc lá sẽ luôn ở bên con mình. Nó có thể không thấy mẹ nhưng mẹ lúc nào cũng thấy nó.

Người chị không muốn mất em, không nỡ để em bên trời cô đơn nên ”thà” đành chọn kiếp làm “là hạt bụi”. Ở đâu chẳng có bụi đường. Ở đâu chẳng có phong sương cuộc đời? Hóa thân của hai người chị “là hạt bụi” để cùng “chiếc lá bay” của mẹ mà bay, mà lăn theo em tận cùng trời cuối đất, cùng san sẻ buồn đau, sướng khổ với nó, động viên nó.

Những hóa thân này, trong chúng ta, ai cũng từng có những phút khóc chia xa, ai cũng từng có một thời sa đà và nông nổi, ai chẳng từng có một thuở hoàng hôn. Ta có thể hóa thân vào chiếc lá “cuốn bay xa“. Ta có thể là hạt bụi “hóa kiếp thân tôi”. Ta có thể hóa thân vào giọt rượu “vẫn chua cay“. Sao không thể là một tiếng đàn “vỡ một nốt si“. Một nốt nhạc lòng tôi viết “hai nốt kép“. Sao không thể là một “giọt sương trên mí mắt“. Một cơn gió ”trên tóc thôi bay”. Một tiếng ve “rưng rưng gọi mùa hè“. Một cánh chim “bay trong hoàng hôn không mỏi”. Một cánh diều ”thả trong nỗi nhớ tuổi thơ”… Trong hóa thân đó, ta chọn dành cho mẹ, cho chị, cho em, cho bạn bè, cho quê hương, cho loài người và… cho người ta yêu!

Con người có thể trở mặt với nhau nhưng vạn vật có bao giờ biết cùng nhau… trở mặt! Những danh vọng, ta đeo theo mệt lử. Chỉ hóa thân vẫn mãi là bất tử.

Cụm danh từ ”chiếc lá bay” với nghĩa tự nguyện âm thầm mà nhân vật người con trai hay tác giả nhẹ nhàng dùng cho mẹ và mẹ nghĩ về con cũng đi đôi với sự nén khóc âm thầm khi chia tay con lúc đầu. Diễn biến tâm trạng cũng như tính cách nhân vật mẹ trong TBH đã hợp nhất.

Cụm động danh từ “là hạt bụi” được tác giả chọn lựa dùng với nghĩa ”dọc đường gió bụi” bám vai hai chị coi như tương xứng với những lời yêu thương “nói nốt” với em trai lúc đầu cũng như sự đảm đang của hai người chị nuôi mẹ cho em yên tâm lên đường cũng thống nhất.

- Hóa thân cho người “em“:

Đến phiên người ”em”? Với cái nhìn ngây thơ từ đôi mắt biếc kia, tác giả – nhân vật nam để cho em gái sẽ chọn ”thà” làm cái gì cho xứng đáng? Tác giả đã đưa em gái ra khỏi sự hy sinh. Từ “em nhỏ” biến mất ở câu dưới, chỉ còn một từ “em” mà TT không thể vô tình sử dụng như người viết đã đề cập ở phần trên.

Em” đã được chọn “thà” làm “hơi rượu say” khi lòng ta không tỉnh táo:

Vắng em lửa cháy bình khô rượu

Đời vắng em rồi say với ai ?

(Say – Vũ Hoàng Chương)

Rượu làm ta say. Em cũng làm ta say. Nhưng không em, ta say để làm gì? Hình ảnh này với “hơi rượu say” làm sao anh trai có thể dùng cho em gái và ngược lại? Đã nói men say, hơi rượu chỉ dành riêng cho bạn bè tri kỷ, tri âm và vợ chồng trước khi chia tay trong thơ Đường và thời phong kiến.

Ngày nay, chia tay nhau người ta chỉ dùng… hơi bia với câu ”bảo trọng” như phim Tàu. Không có anh trai nào coi đứa em gái cốt nhục của mình là ”men say”, “hơi ruợu say” cả. Men rượu say bao giờ cũng được hiểu như men rượu của ái tình.

Trong dòng nhạc, dòng thơ không bao giờ thiếu vắng hình ảnh say vì ”em”, say vì ”tình” này. TT từng nằm vùi trong “Một mảnh tình”:

Đôi lứa phương tâm một mảnh tình

Như trăng vàng mở vẹn gương trinh

Chén sen ráo miệng, thề pha lụy

Quạt trúc trao tay, ước lỗi hình

Gió trải luống gào duyên cựu mộng

Dây oan chỉ riết chí kim sinh

Say vùi ta đốt tuơng tư thảo

Bóng khói qua mây lại nhớ mình.

Say vùi rồi chợt tỉnh. TT quả có cái say của lý trí. Trong ”Tình xa”, Trịnh Công Sơn đã nhìn thấy cả ”Giọt rượu nào mãi chua cay trong tình vẫn u mê”.

Như vậy, ”hơi rượu say” dứt khoát không thể dùng, không viết cho tâm trạng của em gái hoặc dùng cho nhân vật người anh trai nghĩ về em gái ruột thịt. TT tuy đã dùng nó nhưng rất ý nhị khi bỏ đi từ ”nhỏ” trong ”em nhỏ” để chỉ còn lại từ ”em” đầy đủ nghĩa ẩn ý. Em nhỏ kia đang ngây thơ thì hãy để em nhỏ ra ngoài sự hy sinh thầm lặng nên từ ”thà” cũng rơi xuống cho ”em” chứ không là ”em gái”. Vậy là người yêu rồi còn gì!

Dị bản với cụm từ ”hơi rượu cay” đứng trong văn bản này càng khẳng định tác giả, người con trai sử dụng cho người yêu qua từ ”cay”. ”Cay”: Tính từ chỉ mức độ mà vị giác: Có uống mới hay. Có dùng mới biết. Có thử mới tường. Trong khi đó, từ ‘’say” cũng là tính từ chỉ mức độ nhưng cảm nhận từ não bộ. Tính từ ”say” này cao cấp hơn ”cay” ”rượu cay” nhưng chưa chắc làm người ta say nhưng đã ‘’say” vị thơm hương nồng đắng thì phải có thêm mùi vị cay của rượu. Người mới nghe, họ sẽ chọn từ ”cay” vì thực tế hơn nhưng ‘’say” rồi sực tỉnh ngay mới là ”bản lĩnh”.

Người nam trong thi phẩm từng mang bản lĩnh của TT trong “Lưu biệt“:

Tiệc này đêm cuối mai chia ly

Anh cố lưu tôi có ích gì

Đời người say tỉnh bao nhiêu dịp

Xin cạn chén rượu để tôi đi

… Giọng đàn lưu luyến làm chi nữa

Tôi quyết đi rồi tôi phải đi

Tức chấp nhận “vạn sự khởi đầu nan”. Bản chọn của HT – HC giữ nguyên từ “say” này ngẫu nhiên mà ”đắc”. Thế nhưng, xưa nay, “hoa rơi hữu ý, nước chảy vô tình”,anh hùng nan quá mỹ nhân quan“! Có khí phách cỡ nào, bản lĩnh cỡ nào thì cũng khó thoát khỏi sự yêu thương lẽ thường của con người. Thiên điạ cũng hữu tình huống hồ là con người! Khi họ nghĩ về người yêu một chút trong ngày tống biệt thì cũng đâu làm mất đi chí khí nam nhi. Trái lại, nó còn tăng giá trị người đó không đến nổi là gỗ đá, là vô tình. Thật ra, cây cỏ cũng nào có phải vô tri, nếu vô tri không ai tin có ”Lời của gió” mà Duy Thái đã viết nên ca khúc tuyệt vời này:

Cơn gió nào bay ngang cuộc đời

Nói với em rằng tôi lẻ loi…

Dù gió có bay ngang vườn chiều

Làm lá khô rơi rụng nhiều…

Nhưng gió ơi gió đừng hôn lên má em

Gió ơi gió đừng đùa trên tóc em

Gió ơi gió đừng ru đôi mắt em dịu hiền

Gió hãy nói rằng em mong có anh

Gió hãy nói rằng em luôn nhớ anh

Gió hãy nói rằng em yêu anh

Con người với mình trần, mắt thịt – một thực thể biết nói, không thể hiểu nổi một ”pho tượng đá” nói gì thì chỉ còn cách tự biến mình thành ra một dạng khác để ”im lặng” nghe. Khi lời không thể phát được giữa thinh không thì ngôn ngữ thầm sẽ tự bật ra. Nếu con người hiểu con người thì sự vật hiểu sự vật trong mối quan hệ tương đồng. Ta cũng có thể lý giải vì sao, chúng ta thường thầm thì cầu nguyện một điều gì đó mong được “đấng thiêng liêng” lắng nghe.

Cùng sự đồng điệu này của văn học, Phạm Duy đưa “Thà như giọt mưa” của Nguyễn Tất Nhiên vào âm nhạc tạo thành những cung bậc, âm sắc xót xa: Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá. Thà như giọt mưa khô trên tượng đá. Thà như mưa gió đến hôn tượng đá. Có còn hơn không?”. Không có sự lựa chọn nào có những hình ảnh hy sinh âm thầm huyền hoặc mà đầy đủ ý nghĩa như vậy cả với từ ”thà” cam chịu, chấp nhận hy sinh một cách cao thượng không một chút tính toán để giữ lại nguyên vẹn một chữ ”tình người” như thế cả!

Ngôn ngữ dùng để xây dựng hình tượng nhân vật, tiếp cận sự việc, lý giải vấn đề như trên gọi là ”phép nhân hóa”. Phép biến con người chuyển sang sự vật thì gọi là phép gì trong thi phẩm TBH nếu không cho là ”phép vật hóa”?

Mẹ: Chiếc lá bay,

Chị: Hạt bụi,

Em: Hơi rượu say.

Dị bản khác đã ghi:

Mẹ! Thà coi như chiếc lá bay,

Chị! Thà coi như là hạt bụi,

Em! Ừ coi như hơi rượu cay.

Theo văn bản này qua ba dấu cảm thán (!!!), ta xác định được ngay người con trai đang nghĩ về người mẹ ”như chiếc lá bay”; người em trai đang nghĩ về người chị ”như là hạt bụi”; người anh nghĩ về em gái ”như hơi rượu cay” nghĩa là người ra đi coi mẹ, chị, em như vật thể vô tri biến mất, tiêu tan…

Cách hiểu như vậy làm cho nghĩa thâm thúy, lòng hy sinh cao cả của hai bên đều bị thương tổn. Bí mật, ẩn ý của những câu thơ mất. Tình cảm gia đình thiêng liêng cũng chẳng còn. TBH chỉ còn là bài thơ tuyên truyền, cổ động cho một kiểu ra đi vì đất nước hay vì manh áo miếng cơm mới quên đi ”tình nhà”. ”Tình nhà, nợ nước” nếu có trong cuộc đời mà thi phẩm đem vào được ”nâng cấp” và bảo toàn, ấy mới là điều kỳ diệu của tay ”kỳ bút”, ấy mới thật sự là một thi nhân tài ba! TT may mắn bảo toàn được điều này.

Ðến đây, ta lại gặp chút bí ẩn: ”Chiếc lá bay” qua mùa thu hoặc già cỗi thì rụng. Trời mưa, đất nhão. Cây khô, lá chết. ”Hạt bụi” này có lúc có, lúc không nếu người ra đi kia… chui vào nơi không có cây cối, không có hạt bụi. Hai hình ảnh trên không phải lúc nào cũng gắn bó bên đời người đi xa nhưng chính ”hơi rượu say” thấm thía này mới đi từ cõi lòng mà ra qua cả bốn mùa, tồn tại hẳn trong ngày lẫn đêm. Cái gì chưa uống đã say? Chính hơi say của tình đời này mới cắn hồn ta, mới bám lấy hồn ta đời đời kiếp kiếp. Không phải là ”em” thì còn cái gì đủ sức làm ta điên đảo hơn? Như vậy, bản thân người ”em” không chọn từ ”thà” mà chính là người sắp đi xa đã chọn từ ”thà” khi nghĩ tới ”em”.

Trong ba câu hy sinh chọn từ ”thà” thì hai câu được chọn từ chủ thể ”mẹ, chị”. Câu thứ ba được chọn bởi đối tượng vị ngữ không hiện diện trong câu. Sự sắp xếp này từ cổ chí kim chưa thấy có thi nhân nào gây ra nhiều rắc rối thú vị như vậy cả! Như vậy, câu ”Em thà coi như hơi rượu say” nên hiểu ngược lại ”Ta thà coi em như rượu say” vì lỡ có ‘’say” em, ta cũng sẽ tỉnh lại và cũng còn đủ bản lĩnh tỉnh táo mà đi theo con đường gió bụi ta đã chọn.

Trong TBH, chỗ nào nữa để tác giả hóa thân nhân vật người con trai nhắc về “tình riêng” của mình. “Chiếc khăn tay” đã hé mở một điều. “Hơi rượu say” cho ta nhiều nghi vấn vì hơi thơ có “tĩnh” nhưng âm vị rất “chua cay”.

Trong đoạn trước, nhân vật người yêu đã xuất hiện trong tâm tưởng nhân vật ra đi qua hình cảnh chiếc khăn bên cô em nhỏ có đôi mắt biếc ngây thơ. Trong đoạn gần cuối, nỗi lòng nhân vật có xáo động lên vì dư vị kỷ niệm như giọt rượu tình không uống cũng say. Cuối cùng, người ra đi đã quyết định quên đi quá khứ đau buồn mà ra đi. Một quyết định cần và đủ để tạo năng lượng đủ sức tống phi thuyền tìm tự do bay lên trời!

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

- Giá trị văn học từ “Ừ nhỉ“:

Từ ”Ừ nhỉ!”: Tiếng nói thầm, bảo thầm với chính mình. Khi ngộ giác (quên đi tâm tình nam nữ) trong tâm đã thành chánh quả (quyết định ra đi làm lại cuộc đời), nhân vật ra đi phát ra tiếng nói thầm.

Trong thi ca, một số tác giả đã từng dùng từ này. Ví dụ:

rồi cũng khóc cho điều đã mất
trâm Cỏ Thi. ừ nhỉ, cỏ thôi mà
nhưng nước mắt… cũng như em, tôi đã
thêm một lần tái diễn trước cỏ hoa…
17.3.1993 (Tái diễn - Nguyễn Trọng Tạo)

Mây bay, ừ nhỉ? mây bay!
Khát khao tôi ngửa bàn tay hứng trời.

Mưa rơi
Từng giọt mưa rơi
Bàn tay tôi đậu mảnh trời xinh xinh.
(Giọt nước - Nguyễn Anh Nông)

ừ nhỉ, chiều hôm nay có nắng
buổi sáng dài ra sau một tháng
gió thủ thỉ qua song
thủy tiên vươn vai lá cùng tình tự
(Bên cửa ô tầng 6 - Nguyễn Văn Duy)
Giật mình, ừ nhỉ! thu sang,
Sao rừng phong đứng, áo vàng chưa thay?
Em về giữa gió thu bay,
Cho ta ngờ ngợ tháng ngày riêng ta,
(Em về giữa lá thu bay
- Lã Thế Phong)

Trong cuộc đời chúng ta, có ai chẳng từng nhiều lần tự “nói xàm” một mình! Nhận xét khi phân tích về đọan thơ nhiều thi pháp của TBH, giáo sư Lê Ngọc Trà trong ”Văn học 11-Tập II ” (Nxb GD – 2004 ) có nhận định:

“Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say.

Chỉ có bốn câu thôi mà không biết có bao nhiêu cách hiểu. Không ai biết chính xác tác giả nghĩ như thế nào, nhưng chắc chắn là không phải cách hiểu nào trùng với tác giả mới là hay”.

Như vậy, cách hiểu nào đưa giá trị nội dung, nghệ thuật của tác giả lên cao, bảo đảm ”tính nhân bản” của tác phẩm thì người đọc có quyền chọn mà theo.

Trước sự quyết tâm ra đi của người con trai không hẹn ngày trở lại, những người thân trong gia đình đã chọn nghĩa hy sinh (thà làm một cái gì đó) nhưng không phải hy sinh con, em mình, không thể bỏ nó mà sự hy sinh với mong mỏi được như ”người bạn đồng hành” của người sắp ra đi vào bước đường bão giông trước mắt. Trong sự hy sinh này còn sự chọn lựa nào khác hơn là sự ”hoá thân” sang một kiếp khác lặng lẽ, trôi tan, sưởi lòng bằng ”chiếc lá bay, là hạt bụi”. Những hình ảnh này mãi theo dư vị đắng cay, ngọt bùi của cuộc đời ở bên người ra đi. Người đó sẽ phải nhớ rằng: ”Dù bất cứ nơi đâu, hoàn cảnh nào, tôi sẽ không bao giờ cô đơn”. “Hơi rượu say” – một cuộc tình qua tay, kia sẽ làm người ra đi tỉnh lại chợt nhận ra mình cần phải bước tiếp đoạn đường mình đã chọn lựa: “người ra đi đầu không ngoảnh lại/Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi).

Người con, em có thể sẽ quên mẹ, chị nhưng mẹ và chị, không bao giờ quên con, em mình như một thể thống nhất “nước mắt chảy xuôi“.

Trong đoạn chia tay, hình ảnh người em nhỏ hiện ra bên cạnh mẹ, chị như một cảnh chia tay ấm tình gia đình dù vắng mặt người cha. Nhưng chỉ trong nháy mắt, chỉ dùng một cụm từ “hơi rượu say”, TT đã thế hình ảnh người yêu vào sự lựa chọn sự hy sinh. Mẹ, chị vẫn thống nhất từ đầu tới cuối nhưng nhân vật em gái biến khỏi sự hy sinh này. Khi nghĩ về gia đình, vẫn có em gái. Khi nghĩ về sự hy sinh, người yêu hiện diện.

Hai nhân vật “em nhỏ” “em” song song tồn tại trong một mâu thuẫn. Chúng không những không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau theo hai chiều ý nghĩa. Thi pháp chuyển nhượng nhân vật” của TT vừa làm cho thi phẩm tăng sức cuốn hút vừa phá vỡ nguyên tắc “mâu thuẫn đấu tranh loại trừ nhau” trong “Lí luận văn học” của các giáo sư, các nhà nghiên cứu trong đó có cả Lê Ngọc Trà đã đề ra.

Đó không phải là “một cách hiểu” tốt cho tác phẩm mà Gs. Lê Ngọc Trà đã “vẽ đường hươu chạy” hay sao?

Ðây là giá trị văn học nhân bản thứ tư của thi phẩm.

5. “Người, Người ấy” với thi pháp “chuyển nhượng nhân vật“:

Phân tích giá trị nhân vật phải đưa nhân vật đó về chung một hệ thống chủ đạo của tác phẩm.

- Giá trị văn học trong 4 câu đầu:

+ “Người” là ai?

Ðưa người, ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Người” là một kẻ đi xa. Người này phải là người thuộc những nhóm chính sau đây: Gia đình. Bạn bè. Người yêu.

Ta xét thử, người này thuộc nhóm nào trong các nhóm trên. Ta đặt tác giả trong cương vị là người tiễn. Loại bỏ cách hiểu tác giả viết dùm cho người khác ở đây.

“Đưa người, ta không đưa qua sông“: Rõ ràng, người mà tác giả muốn đưa tiễn không phải là người mang ý chí Kinh Kha qua sông Dịch mưu sự hành thích Tần Thủy Hoàng theo điển tích xưa mà các sách Giáo khoa bắt học sinh học theo… lòi mắt. Tức người ra đi không phải là người mang trong mình một chí lớn gì to tát cả mà cánh mày râu thường ví von. Như vậy, nhân vật “người” này chỉ là người nam ra đi bình thường. Tiễn đưa một người đàn ông bình thường (không chí khí thì cũng là hạng tầm thường) sao tác giả lại đau thương cực độ đến nỗi lòng dâng sóng, mắt ngập hoàng hôn? “Đồng tình luyến ái” à?

Người ra đi cũng chẳng phải là người “qua sông” hay “sang sông. Tức là “Người” này cũng chẳng phải người yêu của tác giả mà tác giả phải “nuốt lệ làm vui nhìn chiếc xe hoa”! đến nổi nghe sóng quậy trong lòng, thấy hoàng hôn ngập mắt?

Nam thì tầm thường. Nữ chẳng phải người yêu. Anh em chẳng phải. Họ hàng cũng không! Họ chẳng thuộc một nhóm người nào ở trên. Vậy, “người” là ai? Đưa tiễn người mà người đó không phải là bạn, chẳng phải bồ thì không lẽ là “ma”? Bây giờ, chúng ta lại phải tìm hệ thống chủ đạo của TBH là cái gì? Chính là sự “Tống biệt“. Tống biệt là tiễn đưa. Tiễn đưa ai? Cái gì? Nếu chúng ta chọn phân tích bổ ngang, đi từ trên xuống dưới là chúng ta lạc vào “mê hồn trận” của TBH.

Sự vay mượn các đoạn thơ và các câu thơ bị xáo trộn liên tục trong TBH không theo hướng bổ ngang là thao tác cần làm.

TBH có mẹ, có hai chị, có em nhỏ rõ ràng đang chuẩn bị tiễn con, em, anh mình sao chúng ta lại thấy đoạn đầu có như không có? Bởi vì tới đoạn có gia đình, TT lại “xuất hồn” ra khỏi xác mà để cho nhân vật của tác giả thế vào. Đây cũng là thi pháp chuyển nhượng nhân vật”, TT đã làm cho “em nhỏ” là em gái nhỏ biến thành “em” - người yêu trong tư tưởng.

Trong thi ca, đã có một Xuân Diệu từng “úm ba la” “chén nước” thành “rượu nho”:

Em cho anh chén nước

Anh biến thành rượu nho.

Anh lại nâng chén nước

Mời em nhấp môi cho

Em ơi đừng uống hết

Kẻo say chết bây giờ!

Đoạn nào không có gia đình, là có TT. Đoạn nào có, TT biến mất. Khó hiểu của thi phẩm thêm một mâu thuẫn ở chỗ hai nhân thân: Nhân vật của tác giả và nhân vật chính tác giả.

Từ ”Người” gói gọn trong một chủ thể “Người” chính là tác giả. Chủ thể tác giả có hai chủ thể con:

Người thứ nhất là người bạn trước đó là nhân vật mà TT xây dựng để tiễn. Sau đó, ngòi bút hư cấu nhân vật một người bạn tầm thường ra đi không còn sức hấp dẫn cho chủ đề “Tống biệt” nên nhân vật ẩn núp trong tim phá bốn vách tim, chui ra thay thế là người thứ hai.

Khi nào cần vai diễn, nhân vật người bạn sẽ hiện ra. Khi nào không còn gia đình, TT trở lại vai diễn chính của mình.

Chúng ta không còn lạ thi pháp này của TT sử dụng trong TBH như đã sử dụng trong HSHTG để xây dựng nhân vật “Người ấy sang sông đứng ngóng đò” chính là “Người” trong TBH: Một gã TT “ném chén cười cho đã mắt” đang ôm nốt “Si” bự chát. Ta chính là Ta!

Biết mấy đời trai trong góa bụa

Đêm ròng đứng thắp mẩu tầm hương.

TT từng biến đời trai xông pha sương gió xuống thành đời “góa bụa”. Góa bụa ai dùng cho đàn ông! TT dùng. Cái gì ngược ngạo là có TT. TT chẳng phải là “nhà phù thủy hô sóng vào lòng và gọi hoàng hôn lên mắt” như Vũ Bằng tán dương mà TT đúng là “Bà tiên góa… vợ với chiếc bút thần kỳ diệu, cưỡi sóng lượn trong hoàng hôn”.

Tuyệt bút TBH của TT vượt hẳn các nhà thơ khác với đề tài tiễn biệt theo thể ”Hành” là ở đoạn đầu bốn câu này. Ta đưa lòng ta! Lòng ta là lòng con người muốn làm ”ly khách” định ”giã gia đình”. Lòng ta mâu thuẫn với con ”người ấy” có bản lĩnh vì nếu muốn tiễn đưa lòng trước hết phải ”dửng dưng” với quá khứ như Hoàng Trọng Nam trong ”Tiễn người ra khỏi lòng tôi” đã viết:

Tiễn nguời – Tôi tiễn khỏi lòng tôi…

Người đi – tiễn khúc trỗi lên rồi.

TT đã dựng cảnh ”tống biệt” không có sông mà nghe tiếng sóng. Âm vang tống biệt với tiếng sóng lòng làm ta nghe văng vẳng đâu đây lời ca ngậm ngùi ru con chim sáo ngày xưa trong ca dao:

Ai đưa con sáo sang sông

Ðể cho con sáo sổ lòng bay xa.

Con người có nghĩa, có tình, từng “Mơ một thuở thanh bình” như TT sao không thể để cho nhân vật mình hóa thân ngậm ngùi ru tình vào kỷ niệm một lần cuối qua dòng sông quên lãng? Dòng sông trong ca dao như một hình ảnh ướt lệ cho sự sang ngang. Phụ diễn sự tiễn biệt đau lòng đó, Ngô Thụy Miên đã ghép thành nốt nhạc rưng rưng: ”Tôi đưa em sang sông. Chiều xưa mưa rơi âm thầm”.

Cho nên, đoạn đầu 4 câu trên, chúng ta sẽ thấy tác giả TT như tiễn bạn, rồi như không hề tiễn bạn, như tiễn người yêu mà chẳng hề tiễn người yêu, lại tiễn lòng mình. Thế nhưng, trong lòng mình đã có người yêu. Như vậy, tiễn đưa lòng mình có khác gì tiễn người yêu mới có “tiếng sóng ở trong lòng”, mới thấy “hoàng hôn trong mắt trong”.

Ai là người thấu được nỗi lòng này? Một người ngoài cuộc nếu có thấy cũng chỉ thấy “Vu vơ” như Tế Hanh:

Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt

Lòng buồn đau xót nỗi chia xa.

Xót dùm, buồn dùm thôi chứ làm sao người ngoài cuộc biết “ẩn tình dạ khúc” ở bên trong? ”Vu vơ” không thôi thì làm sao nói được nỗi lòng người trong cuộc?

+ Ẩn dụ của “Sóng“:

Trong vật lý học, sóng là sự lan truyền của dao động. Sóng biển là sự dao động thẳng hay tròn của nước biển.

Trong văn học, sóng biển là hình ảnh tượng trưng, là những ẩn dụ của cuộc đời. Trong thi ca, sóng thường là biểu hiện của tình yêu không bao giờ ngừng nghỉ.

Khi tình yêu chưa… tắt thở, nó xanh ngọt ngào, da diết trong Xuân Quỳnh “Chỉ có sóng và em“:

Một trời xanh, một biển tận cùng xanh
Và gió thổi và mây bay về núi
Lời thương nhớ ngàn lần em muốn nói
Nhưng bây giờ chỉ có sóng và em..

Khi nó thắm thiết, người yêu nghẹn lời trong “Biển, núi, em và sóng” của Đỗ Trung Quân:

Cám ơn sóng nói thay lời dào dạt
Hàng thùy dương nói hộ tiếng thầm thì
…Cám ơn em dịu dàng đi bên cạnh
Biển ngoài kia xanh quá nói chi nhiều
Núi gần quá – sóng và em gần quá
Anh đủ lời để tỏ một tình yêu.

Khi tình yêu chín mùi, nó “tham lam” mật ngọt trong “Biển” của Xuân Diệu:

Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi

Khi nó lên hương thì ngút ngàn ca ngợi “Em, sóng biển anh yêu” của nhà thơ Nga Fyodor Ivanovich Tyutchev (thivien.net):

Trong phút giây bất hạnh
Như có sức bí huyền
Đẩy hồn anh còn sống
Vào con sóng tình em.

Sóng trở thành cổ tích tình yêu trong “Chuyện tình biển và sóng” của Trần Ngọc Tuấn:

Sóng bạc đầu từ đó phải không anh?
Còn biển kia vẫn xanh màu huyền bí?
Không phải đâu em biển kia không chung thủy,
Dẫu bạc đầu sóng vẫn mãi thủy chung.

Anh dắt em giữa biển nghìn trùng,
Nghe dã tràng kể chuyện xưa xa vắng.
Dẫu không phải tình đầu em trong trắng,
Chỉ mong anh một lòng với cổ tích biển ngày xưa!

Còn đây, sóng tri âm trong lòng thi nhân:

Chỗ ấy, sóng đập vào bờ bể
Nguời đến rồi người lại ra đi
Sóng vô tâm và đá vô tri
Chỉ tiếng đập trong lòng ta ở lại.

Tiếng sóng đập xa vời xa ngái
Ngỡ tan đi mà vẫn đang còn
Sóng không đổi dẫu bờ thay đổi
Ta nhìn ta mà lạ tâm hồn.

Cứ ngỡ lạc mà không thể lạc
Tiếng sóng xa là bạn đồng hành
Tiếng sóng ảo cho đời nương tựa
Tiếng đất trầm chói nỗi mông mênh.
10-12-2000

(Chỗ ấy sóng – Vũ Quần Phương)

- “Sóng” trong TBH của TT là tiếng sóng nào? Hình như nó cũng là “tiếng đập trong lòng ta ở lại”! Nó không còn là tiếng sóng của một tình yêu xanh ngát, ngọt ngào, êm đềm nữa mà nó đã thành “bạn đồng hành, cho đời nương tựa” khi “Người đến rồi người lại ra đi” như Vũ Quần Phương (VQP) ngùi ngùi, se sót. “Người đến, người đi” của VQP chưa biết có giống như “Người” mà TT tiễn ra khỏi lòng không nhưng trong lòng cả hai TT và VQP đã tồn tại tiếng sóng. Tiếng sóng của VQP là tiếng sóng thật đánh động vào lòng. Tiếng sóng của TT là tiếng sóng lòng đánh ra mà có! Có sẵn rồi có thêm đã đau. Không có mà phải có mới nát tan cõi lòng. VQP có tiếng sóng ở lại làm tri kỷ. TT thì cả tiếng sóng tri kỷ cũng tiêu luôn trong “Can trường hành”: “Giai nhân, danh sĩ đua ngao du. Cùng ta tri kỷ không ai ở”. Cả tiếng sóng trong lòng ta cũng phản ta, thì giữ lại mà làm gì? Tiễn đi thôi! Cấp độ sóng trong TBH dấy lên thành… sóng Thần! Khi sóng thần dấy lên, đại hồng thủy ngập tràn trong cửa sổ tâm hồn:

Bóng chiều không thắm không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Khi sóng thần trong lòng dấy lên, lòng nào chẳng tanh banh… tim nào không ngập ngụa nước ròng? Trời đang nắng vụt tắt mặt trời. Mắt đang long lanh chợp ngập hoàng hôn. Cái gì đủ sức mạnh cho ta thành người dở sống, dở chết như thế nếu không là Tình Yêu?

Bóng chiều của thi ca bao giờ cũng đi kèm với nội tâm không vui của con người nhưng với TT lại khác: ”Bóng chiều không thắm, không vàng vọt” nghĩa là buổi chiều chưa tắt mặt trời. Bầu trời vẫn còn đủ sáng. Ðó là một cái nhìn rất ”tĩnh”, rất ”chuẩn”, rất ”tinh tế” khi quan sát một hiện tượng thiên nhiên với từng sắc màu ”không thắm” (không hồng tươi), nhưng cũng ”không vàng vọt” (lợt lạt, bệnh hoạn, không sức sống). Chỉ bằng hai sắc màu mà TT thi – họa sĩ đã vẽ lên được một buổi chiều chưa tắt nắng trước khi hoàng hôn bao phủ không thua kém gì thi bút Tô Đông Pha.

Dù nói ”không thắm, không vàng vọt” nhưng nội tâm nếu không buồn, không xám, không tươi thì làm sao có những từ chỉ mức độ ”vàng vọt” dẫn cảnh ”hoàng hôn” phủ xuống dòng thơ? Bề ngoài là lý nhưng bên trong đầy tình. Tình và lý thống nhất trong một con nguời. Có mâu thẫn gì thì cũng ”anh em bà con cật ruột” với nhau ”môi hở răng lạnh”, ”máu chảy ruột mềm”. Cho nên, tình trào ra, lý níu lại. Nét tâm lý này coi như ”đột biến gien” đặc sắc của TT làm cho những ẩn khúc trong thi phẩm xoắn lại với nhau khi có khi không, khi ẩn khi hiện với bao sắc màu tươi đó, buồn đó, mông lung, huyền hoặc đi đi, ở ở thu hút lòng người ưa thích phiêu diêu, say cơn nghiền ngẫm …

+ Giá trị văn học của danh từ “Hoàng hôn” trong TBH:

Dòng thơ ”tống tiễn” trong văn học Trung Quốc đầy đủ ”hữu giang, hữu lãng tất bất vô yên” (có sông, có khói không thể không có sóng). Nó còn có ”diệp lạc tiêu tiêu” (lá rụng), có ”bạch vân vô tận” (mây trắng mãi bay), có ”hàn cầm dữ suy thảo” (chim lạnh, cỏ héo)… trong thơ Tư Không Thư, Lưu Trường Khanh, Vương Duy.

Dòng chảy này qua văn học Việt Nam giữ lại được bóng sắc ”hoàng hôn, khói, sóng, mây…”:

Mây bạc lưng trời bay lững thững

Chim trời tan tác bóng hoàng hôn.

(Trông chồng – Thái Can)

Từ ”hoàng hôn”, ”tan tác” đã nói hết nội tâm buồn bã, mất mát, cô đơn của cảnh ”trông chồng” khi ”chinh nhân ruỗi ngựa lên miền Bắc”. Hoàng hôn gợi nhớ chồng. Hoàng hôn gợi nhớ nhà trong Ðinh Hùng với ”Bài hát mùa thu” năm nao:

Ai về xa mãi cô thôn

Một mình trông khói hoàng hôn nhớ nhà.

Khói hoàng hôn ở đây hắt hiu, man mác khi chuyển sang ”Tràng giang” của Huy Cận thì nó mang ý nghĩa ”không” mà ”có”:

Lòng quê dờn dợn vờn con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Nỗi nhớ nhà này không chờ phải thấy khói hoàng hôn (tức cảnh sinh tình).

Khói chiều là khói thật từ những làng quê bay lên khởi đầu buổi nấu cơm nhưng có giá trị là một tín hiệu kết thúc một ngày bình thường không chiến tranh. Ở đây, ”lòng quê” đầy ắp nỗi nhớ trong lòng người đi xa nên không cần cái tín hiệu khói chiều kia phát ra, người ta cũng thấy nỗi nhớ tràn ra, bao phủ cả trời chiều!

Các nhà thơ Ðường không ai biến hóa ngòi bút ảo giác như vậy ngay cả Thi Tiên Lý Bạch, Thi Thánh Ðỗ Phủ, Thi Phật Vương Duy.

Từ ”hoàng hôn” sang các thi nhân trẻ hơn thì lại một lần nữa biến hóa thành nỗi nhớ hư không, một nỗi buồn ly biệt. Thời đại với những biến cố chiến chinh, ly loạn đã làm thay đổi ý nghĩa câu chữ và đưa ngôn từ sang một nét nghệ thuật khác phù hợp với thời đại.

Giá trị hiện thực của một tác phẩm được nâng cao nếu nó phản ánh đúng những gì mà xã hội đã có. Thế nhưng mỗi thể loại văn học có sự phản ánh theo đặc trưng riêng của từng loại thể. Thi phẩm TBH trong dòng trữ tình mang giá trị hiện thực nhưng cấu trúc ngôn từ đặc biệt của thể Thơ đã trang bị cho nó đôi cánh lãng mạn và ”hoàng hôn” trong thi phẩm chuyển nghĩa ”buồn ly biệt” đã thành một bức tranh có giá trị nghệ thuật tuyệt đỉnh mà không thi phẩm nào có được. Tại sao ta dám khẳng định như vậy? Tại vì khi từ ”hoàng hôn” hay ”không khói hoàng hôn” gây nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương qua tay TT, nó đã thành bức tranh được thu gọn cực nhỏ đủ gởi vào đôi mắt một “người” mà “người ấy” đang nhìn hiện thực tươi roi rói (không vàng vọt) thì lập tức ”đầy hoàng hôn trong mắt trong”.

Bóng chiều chưa đến mà đã thấy hoàng hôn. Chưa có hôm nay đã nghĩ đến ngày mai. TT từng than thở trong “Không đề“:

Tôi đợi trăng tươi pha ngọt mắt

Và chờ bóng lá đắp lòng đơn

Hôm qua không có, hôm nay mất

Ai rú trong trời tám hướng sương.

Chưa sập nắng đã thấy chiều kéo lại! Nỗi bi quan này từ đâu mà có? Cuộc đời nếu có những tháng ngày vui vẻ, hạnh phúc ai buồn làm gì! Chỉ có những thất bại trong tình trường mới buồn… sập mắt vậy mà thôi! Vì thế, TT mới tiên liệu một tương lai xám xịt buông quanh, phủ dày: Chưa bình minh đã thấy trời hoàng hôn.

Thúy Kiều của Nguyễn Du từng vật vã: ”Nay hoàng hôn lại thấy mai hôn hoàng”. Bế tắc! (Từ hoàng hôn dùng ngược như Nguyễn Du là một từ vô nghĩa. Bí vần. Vì thế, Báo Thanh Niên, Lao động năm 2001 đã đăng bài viết của các cô cậu Tú: “tên khách họ Hoàng thật là tàn nhẫn, hắn hôn Thuý Kiều đã rồi lại bắt Kiều hôn lại” tức là: Hôm nay Hoàng hôn Kiều, mai, Kiều hôn Hoàng?!). Nhưng nghĩ cho kỹ: Hôm nay thấy hoàng hôn. Mai thấy hoàng hôn. Vậy thì còn một quãng thời gian nữa vào ban đêm. Bóng tối không ai cho là hoàng hôn cả. Nghĩa u ám còn nhẹ. Với TBH, TT “đính” một từ ”đầy” định ngữ cạnh ”hoàng hôn” ”hoàng hôn” đầy ắp đó ở ngay trong mắt!

Cánh ”cửa sổ tâm hồn” như vậy là khép mất rồi bởi nó ”đầy” quá, không thêm vào hay bỏ bớt ra thì mở hay nhắm lại ngày qua ngày, đêm qua đêm coi như không còn ý nghĩa sống! Mắt vô hồn. Mắt thất tình mới vậy chứ!

Nhưng ta đã thấy nhân vật nam trong thi phẩm có sáu đức tính tuyệt vời dưới đây sao lại thấy hoàng hôn u ám trong mắt? Chẳng qua, TT vẽ một cảnh này để minh họa cho một ý khác mà thôi. Thử xem: Tiễn đưa bạn cũng đâu đến nổi dùng đôi mắt chết lịm, vô hồn như vậy? Chỉ có tiễn đưa lòng mới đau khổ cùng cực đến độ tột cùng như thế mà thôi!

Hình ảnh này đã có trong ”Tiễn biệt” của Nguyên Sa:

Tôi muốn hỏi thầm người rất nhẹ

Tôi đưa người hay tôi đưa tôi?

Tiễn đưa lòng mà ”hỏi thầm” tức là vẫn còn tâm trí. Tiễn đưa lòng của nhân vật nam trong TBH thì cái tâm trí hỏi thầm kia đã thu hết vào ”cửa sổ tâm hồn” mà nhìn. Cái nhìn ”đụng” ngay bức tranh “đầy hoành hôn” treo… trong mắt. Tầm mắt đã cạn cùng. Tiếng lòng cũng theo đó mà tắt nghẹn.

Vũ Đình Liên từng hỏi:

Làn gió heo mây xa hiu hắt

Lạnh lùng chẳng biết tiễn đưa ai.

Dấu hỏi của người trong cuộc tự hỏi lòng đã sinh ra những dấu hỏi khác cho người đọc ”Hoàng hôn trong mắt ai?”, ”Ðưa người nào? Ai đưa ai?”

+ “Giá trị ngữ pháp của cụm danh từ “trong mắt trong“:

Có hai cách hiểu:

Thứ nhất: Mắt trong: Tính từ chỉ sắc thái: ”trong” làm định ngữ cho danh từ ”mắt”. Tác dụng của nó trong đoạn bốn câu thơ trên là giữ cho câu thứ nhất, nhì và bốn liền vần: “qua sông – trong lòng – mắt trong” (TT thuận cách gieo vần 1-2 và 4 trong thất ngôn). Chính nó đã làm cho nghĩa đoạn thơ thêm phần ”bí ẩn”. Nếu ta bỏ đi từ ”trong” thay bằng ”ai” (Sao đầy hoàng hôn trong mắt ai?) câu thơ giảm vần (chỉ còn từ “sông – lòng”) và ý thơ ”bí ẩn” đắc giá kia bị triệt tiêu. Phép tu từ mất đi một nghĩa chơi chữ ”trong” – động từ, gặp ”trong” - định ngữ (trường hợp từ ”đồng âm, khác nghĩa”).

Thứ hai: ”Mắt trong” : Theo nghĩa đen: Mắt sáng, khỏe mạnh, đồng tử trong veo như nước hồ thu. Theo nghĩa bóng: Ám chỉ một ánh mắt ngây thơ chưa thấy ”Ba vạn sáu nghìn ngày” của Cao Bá Quát ”có có, không không”. Thi nhân ngày xưa tả người con gái đẹp thường dùng ”làn thu thủy nét xuân sơn”, mày tằm, mắt phượng”, ”sóng thu ba” hay ”mắt huyền”.

TT dùng ”mắt trong” theo ý nghĩa nào? Ta có thể nghĩ theo hai cách nhưng ánh mắt này có phải ”hoàng hôn trong mắt em ?” mà Miên Du trong ”Cánh thu sầu” đã viết:

Chiều nay trong mắt em dấu hoàng hôn

Người xưa đã mất, vàng lá thu phong.

thì khẳng định không phải.

Sự ”tiễn đưa lòng” trong TBH không thể có bóng dáng người yêu nào đứng cạnh người yêu với đôi mắt trong veo như vậy. Chỉ có mắt mình đối diện với mắt mình mới ”trong mắt trong”. Như vậy, sự thống nhất trong đoạn 4 câu đầu trong TBH là sự tiễn đưa lòng. Chọn cách nào cũng có ”hoàng hôn trong mắt” mà đoạn thơ đang tả cảnh buổi chiều trước khi hoàng hôn. Hãy chú ý câu: “Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước ”. “Chiều hôm trước” là chiều nào? Buồn vì chuyện gì? Chính là cái buổi chiều trước hoàng hôn này:

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt

(văn bản khác ghi ”Nắng chiều” nghĩa tả thật không gợi cảm u buồn bằng ”bóng chiều”)

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Buồn vì ”Ðưa người, ta không đưa qua sông”. Từ ”người” không viết hoa này như lặng lẽ, ngấm ngầm giấu một nỗi lòng. Nếu ”người” là ”em” thì chính là nỗi lòng của ta. Ta đưa em cũng chính là ta đưa lòng ta. Vậy thì coi lại từ ”người” ở đoạn thơ đầu với ”ngươi” ở đoạn thơ giữa có cùng một nghĩa hay khác?

Trở lại cặp từ mà người viết có nhắc tới ở phần mở đầu ”Người – Ta” ở đây là nhân vật nam. ”Ta – Ngươi” ở đây cũng là nhân vật nam. Xét từng cặp từ thì ”Người – Ta” ở đoạn đầu nhẹ nhàng hơn vì ”Người” vừa chứa ta, vừa có “Em” mới có ”tiếng sóng lòng” quấy lên. Hơn nữa, đứng về cách hành văn, không ai viết: ”Ðưa ngươi, ta không đưa qua sông” nặng nghĩa ”trịch thượng”, mất giá trị cảm xúc của lời thơ. Còn đối với cặp từ dưới “Người – Ta” trong “Đưa người, ta chỉ đưa…” nhấn mạnh, khẳng định một lần nữa là mình đưa ai? Lòng đã dứt rồi, không có ‘‘Em” còn quấy sóng nên chỉ còn lại mình ta đối diện một sự thật mà thôi.

Văn bản khác dùng từ ”người” trong câu ”Ta biết người buồn” thì nên hiểu theo nghĩa có hai chủ thể: Người đi, người tiễn. Người đi là bạn (người), người tiễn là tác giả (ta). Vậy, gia đình người (mẹ, chị, em) là gia đình của bên người đi hay người tiễn? Nếu nói gia đình là bên người tiễn thì mẹ, chị, em không thể có những hóa thân cho thằng con, em, anh trai… hàng xóm! Muốn không tiễn con hàng xóm thì chỉ còn nhập nhân vật đi vào nhân vật tiễn là xong. Nhưng đã nói người đi là bạn tác giả hay nhân vật của tác giả trong 4 câu đầu không thuộc trong nhóm nào cả và người bạn ở trên cũng đã biến mất theo con sóng trong lòng của nhân vật bạn tiễn. Cuối cùng, chúng ta thấy chỉ còn lại gia đình của nhân vật của tác giả hay của tác giả. Từ ”ngươi” trong điệp cụm chủ vị “Ta biết ngươi buồn” xuất hiện hai lần khẳng định chắc chắn rằng người đi hay tiễn cũng chỉ có một người.

+ Giá trị tu từ của “Người” và “Ngươi” trong TBH:

Ta xem lại văn bản đoạn thơ đầu sẽ thấy rõ con người thứ nhất (Ta) qua từ ”người” này đang khụy xuống (đầy hoàng hôn trong mắt) thì con nguời thứ hai (Ta) qua từ ”ngươi” tỉnh táo (không vàng vọt) vực dậy. Đồng hành với TT, còn có Đinh Hùng trong ”Một tiếng em” đã từng là kẻ ra đi:

Từ giã hoàng hôn trong mắt em

Tôi đi tìm những phố lên đèn.

Say tình, buồn tình rồi tự tỉnh giấc khi ”bóng khói qua mây lại nhớ mình”, chán đời khi ”phiếm du mấy chốc đời như mộng” , TT đã tự vực mình đứng dậy qua từ “Ngươi” nói với chính mình: Ừ nhỉ! Tỉnh mộng rồi!

Vậy, từ “người” có chứa ba chủ thể (bạn – người yêu = ta), từ “ngươi” chứa một chủ thể “Ta”.Người”: Yếu đuối. “Ngươi“: Khí phách. Hai khí chất đối lập nhau cùng tồn tại trong thể thống nhất chủ đề “Tống biệt”. Mâu thuẫn phát sinh vẫn không loại trừ nhau. Một ẩn. Một hiện thay phiên… “hành” người đọc váng mồ hôi… chẳng hiểu hư thật thế nào! Vậy người trong cuộc thực sự tiễn đưa này là ai? Không ai cả? Tiễn đưa không có ai thì chỉ còn mình tiễn đưa lòng, tự mình dùng… bảy mươi hai phép thần thông của Tôn Ngộ Không mà “phân thân” ra để tự đưa, tự tiễn.

Con người trong ngữ cảnh đi, ở này đã xẻ ra hai phân thân vì từ ”người” (có ta có em ):

Ðưa người, ta chỉ đưa người ấy,

Một giã gia đình, một dửng dưng …

Phân thân một: ”Người ấy” là người nào? Chính là người đang từ giã gia đình ‘’sáng hôm nay” lúc ”trời chưa mùa thu tươi lắm thay”. Tức là từ ”ngươi” có ”bản lĩnh” đó.

Phân thân hai: ”Người ấy” là người đành phải ”dửng dưng” với nỗi buồn quá khứ từ ”chiều hôm trước” khi có “tiếng sóng trong lòng”, có ”hoàng hôn trong mắt trong” ”đưa người ” (có ta có em) chứ không là người phải ”dửng dưng” với gia đình. Ba chấm lửng (…) kia kéo dài cho sự dửng dưng tăng giá trị tư duy về phía độc giả.

(Chú ý cách hiểu này vì ở trên, chúng ta đã thấy được nét tính cách độc đáo của mẹ, chị: Can trường, tiết liệt, chịu đựng, đồng tình, thông cảm cho con em trai nên nhân vật nam này không thể ”dửng dưng” với gia đình. Nếu không thấy được ý nghĩa này thì từ ”dửng dưng” sẽ chạy theo nghĩa hy sinh tình nhà, hình tượng nhân vật đại diện cho một tầng lớp người trong thời ly loạn sẽ mất ý nghĩa cao đẹp).

Một con người đưa tiễn hai phân thân của mình chính là ”người ấy” trong văn bản ”Ðưa người, ta chỉ đưa người ấy” mà ”người ấy” trong quá khứ có một thời:

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng

Giải đường xa vút bóng chiều phong

(HSHTG)

“Người ấy” oai phong, uy vũ, nhìn xa, thấu rộng, có xác, có hồn. “Người ấy” thấy cả sự ”lạnh lùng” trong bóng chiều đã tắt còn có con đường để đi cũng như người ấy trong TBH thoát qua cửa ải sầu tình mà ra đi. Hai người này là một. Cách xây dựng nhân vật hai phân thân và có khí chất ẩn dưới hai lớp áo nam – nữ cũng chỉ là một người, một tác giả chỉ có trong TT.

Tóm lại: “Người ấy”: “Một giã gia đình” (chia tay với mẹ, chị, em) nên “buồn sáng hôm nay“. “Người ấy“: “Một dửng dưng” (chia tay với tình cũ) nên buồn “chiều hôm trước“. Sự hấp dẫn 4 câu đầu vẫn chính là thi pháp “chuyển nhượng nhân vật”. “Chiều hôm trước“: Thời gian của quá khứ. “Sáng hôm nay“: Thời gian của hiện tại. Chúng ta gặp thủ pháp xây dựng không gian ba chiều của TT trong cụm từ chỉ bằng ba câu thơ “Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc/ Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay/ Em thà coi như hơi ruợu say”. Chúng ta gặp lại nó trong bối cảnh “người ấy” giã gia đình và “người ấy” dửng dưng với quá khứ cũng chỉ bằng… hai câu thơ!

Văn Giá trong bài “Thâm Tâm một thời và mãi mãi” (thotre.com) từng có dự cảm: “Phải thừa nhận rằng bốn câu mở đầu này có một sức quyến rũ mê người. Và hầu hết trong số chúng tôi đều coi mấy câu thơ ấy viết về tình yêu, viết về cuộc tiễn biệt của đôi trai gái yêu nhau nào đó. Bảo là nỗi buồn nặng trĩu trong lòng đôi người yêu nhau kẻ đi người ở có gì là sai đâu…”.

Chúng ta hãy lấy đầu đề rất có giá trị thời gian của Văn Giá đóng mộc cho giá trị văn học này của TT.

Đây là giá trị nhân bản thứ năm của TBH.

6. Những phẩm chất của hình tượng “ly khách”:

Với loại hình tự sự, yêu cầu chúng ta đi từ nhà văn đến nhân vật nhưng trong thi phẩm khó hiểu như TBH, chúng ta lại phải lội ngược dòng từ nhân vật tới tác giả.

TT đã để mình tiễn cái quá khứ của mình: Muốn phá bỏ thực tại. Thực tại quá chán chường “ru rú trong trời tám hướng sương” mà trong “Can trường hành”, TT đã phẫn nộ muốn “Ném chén cười cho đã mắt ta” khi cảm thấy không xứng đáng là một kẻ “tráng khí” bằng người. Nam nhi vẫy vùng cần gì phải mượn cái gương Kinh Kha tận bên Tàu. Chỉ cần “Giày cỏ, gươm cùn” như Nguyễn Bính trong “Hành phương Nam” cũng đi. Chỉ cần trang bị chút “da ngựa bọc thây” của Trần Quốc Tuấn và ”Trung liệt ca” Phạm Hồng Thái:

Thà làm một đấng nam nhi.

Ngửa nhìn máy chém gan lỳ tướng quân.

mà Hoàng Phùng Miên diễn tả là có thể ”giã gia đình, trường học để ra đi”. Người ra đi là tác giả. Người tiễn cũng là tác giả. Tưởng tượng gắn liền hiện thực: Tác giả phải xây dựng cho được bối cảnh gay cấn rồi đặt mình trong bối cảnh ấy mà giải quyết. TBH đã có bối cảnh cô nhi quả phụ rất thương tâm: Không cột trụ (đàn ông) trong gia đình. Hiện thực này đã không xa lạ trong lịch sử thời ly loạn, binh biến, chinh chiến (nhập ngũ, bắt lính, tòng quân…). Nếu thơ Ðỗ Phủ là bức tranh hiện thực tố cáo xã hội phong kiến thời thịnh Ðường đang trên đường xuống dốc với những cuộc nổi loạn như loạn An – Sử, TBH bé nhỏ hơn với một bức tranh ”cô nhi quả phụ” trên cũng có giá trị như một bằng chứng sống tố cáo cuộc chiến tranh gây ra nỗi đau chia cắt!

TT chỉ để hai từ ”buồn” cho nhân vật người con trai trong thi phẩm như muốn kiềm chế nỗi lòng có ”bi” nhưng không ”lụy” như Nguyễn Bính đã nói dùm trong ”Hành phương Nam”:

Người đi buồn lắm mà không không khóc

Mà vẫn cười qua chén rượu đầy.

Khí phách này dù đã mượn chén rượu mới có nhưng rất đáng mặt nam nhi mà ngàn năm trước, tận bên Trung Quốc, Lư Luân đã viết tiễn Lý Ðan:

Ly biệt chính kham bi,

Yểm khấp không tương hướng .

(Ly biệt đau lòng nhưng không thể hướng vào nhau mà khóc.).

Trong thực tế, Nguyễn Bính ”mang giày cỏ, gươm cùn” vào Nam khi chiến tranh đến. TT cũng chọn một cách lên đường sau cách mạng tháng Tám bỏ lại ”những chuyện thương tâm”, xa lìa ”ngày muộn chuông đau chuyện đá vàng” trong “Ngậm ngùi thế sự” với khí khái của một ly khách “chí nhớn chưa đầy nửa tấc gang” trong “Vọng nhân hành“:

Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch

Ta ghé hoài câu “nhất khứ hề”.

(Những bài làm theo thể ”Hành” của chín nhà thơ Ðường: Lý Bạch, Lý Ích, Tào Phi, Thôi Hiệu, Ðỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Cao Thích, Vương Duy, Trần Ðào và bảy. nhà thơ Việt Nam: Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Bính, Tô Thùy Yên, Thu Bồn, Trần Chấn Uy, Trần Tuấn Khải đều mang âm điệu buồn day dứt chứ chưa có một niềm vui ngay cả bài ”Dương phụ hành” của Cao Bá Quát ca ngợi sắc đẹp của người đàn bà tây phương. Chỉ riêng bài TBH của TT, nghĩa một, tả thực là buồn nhưng nghĩa thứ hai, ẩn dụ hình tượng lại là một bản lĩnh bên cạnh giá trị văn học là một bức tranh lên án chiến tranh).

Tạo ra hoàn cảnh thương tâm bao nhiêu thì cách giải quyết càng quyết liệt , dứt khoát bấy nhiêu mới khắc họa được tính cách nhân vật sâu sắc, mới có giá trị hiện thực của hình tượng xây dựng. Ví dụ: Bức tranh ”Binh xa hành” cuả Ðỗ Phủ là biểu tượng cuả cảnh mẹ, vợ con xa cách chồng, cha vì họ bị bắt lính. Bức tranh ”Sở kiến hành” của Nguyễn Du là biểu tượng về kiếp sống lê la của mẹ con thuộc tầng lớp nghèo hèn trong xã hội. Bức tranh TBH quả phụ cô nhi của TT là biểu tượng về sự chia cắt bởi chiến tranh và hình ảnh ”ly khách” là biểu tượng cho một tầng lớp trẻ ra đi tìm lý tưởng sống trong thời loạn lạc.

TT đã xây dựng nhân vật có sự phân vân giữa tình nhà và tình riêng với chí lớn, giữa quá khứ và hiện tại. Tác giả đặt mình vào nhân vật để giải quyết tình nhà (mẹ, chị, em đều là những người can đảm, tiết liệt đủ sức chịu đựng, chèo chống trong sự trống vắng những rường cột gia đình: Trước vắng cha nay vắng con, em trai). Nếu giải quyết tình nhà mà chưa giải quyết tình riêng là một thiếu sót cho nhân vật. TT đã không hề quên và đã sắp đặt câu thơ, hình tượng hết sức khôn khéo, thông minh. Mẹ, chị, em đã giải quyết xong. Tiếng lòng của họ cũng đã tuôn ra từng giọt lệ, từng hoá thân thầm lặng để thông cảm, nâng bước người sắp phải ra đi mà ta đã xem xét ở trên.

Buồn thương nhưng không bi lụy (không khóc), nhân vật này đã mang chữ ”Dũng” .

Không để hoàn cảnh chi phối (ngoại cảnh vẫn tươi sáng, không héo uá ”Giời chưa mùa thu tươi lắm thay! Bóng chiều không thắm, không vàng vọt”) nhân vật này đã mang chữ ”Trí” vì người buồn mà không ảnh hưởng bởi cảnh. Nó phủ định cách lý giải quen thuộc “người buồn cảnh có vui đâu“.

Ngược lại, nỗi buồn không lan tràn bao trùm cảnh vật, không để người em gái là kẻ chịu hy sinh, nên khung cảnh tiễn đưa vẫn vô tư trong buổi sáng mùa hạ lý tưởng, cả ba người mẹ chị, em là hình ảnh đẹp nhất trong lòng nhân vật ra đi, nhân vật này đã mang một chữ ”Nhân”.

Ra đi nhưng vẫn mang theo hình bóng người mẹ và không để mẹ rơi vào tình huống bất ngờ, nhân vật này đã mang chữ ”Hiếu”.

Ra đi nhưng không quên mang theo hình bóng hai người chị tiết hạnh, trong trắng đẹp đẽ và em nhỏ thơ ngây đáng thương, nhân vật này đã có chữ ”Nghĩa”.

Quyết lòng quên đi người đã làm mình ‘’say” nhưng không hề quên đi kỷ niệm dù là chỉ một chiếc khăn tay, nhân vật này giữ trọn chữ ”Tình”.

Một con người ”lý tưởng” với sáu chữ ”Hiếu, Nghĩa, Tình, Dũng, Trí, Nhân” tuy có quá lời nhưng chính là con người nói theo nghĩa “cách mạng”: Có một “nhân sinh quan, thế giới quan” tương đối mới mẻ để biến nỗi buồn thương kia thành sức mạnh tiếp nối, động viên cho một dự định ”giã gia đình”. Nét tâm lý này đã được ngòi bút nghệ thuật khéo léo TT dàn dựng khiến thi phẩm TBH khác hẳn những thi phẩm của những nhà thơ Ðường trong cùng đề tài ”Tống biệt” bằng thể ”Hành”.

Theo những nhà thơ Đường, chia tay phải gắn với cảnh. Cảnh gắn với tâm trạng mới bật thành tiếng thơ ai oán, ngậm ngùi, chua xót và bao giờ chia tay cũng có bối cảnh: Kẻ đi, người tiễn. Họ là những nhân vật thật có tên tuổi và họ là nhân vật hư cấu của tác giả. Trong thơ Đường, đề tài tiễn biệt, không hề có nhân vật phức tạp, khó hiểu khi vừa là người tiễn, vừa là người đi như nhân vật trong TBH.

Xét sáu mươi bốn nhà thơ Ðuờng tính từ Sơ Ðường có Vương Bột đến thịnh Ðường có Lý Bạch qua Trung Ðường có Hàn Dũ kết lại ở Vãn Ðường có Lý Thương Ẩn không ai không viết tiễn đưa người đi xa mà thiếu cảnh buồn.

Rõ nhất là mười sáu nhà thơ Ðường có bài thơ với đề tựa ”Tống biệt”. Nhân vật của họ đều là thật như Lý Bạch có ”Tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quãng Lăng”, Ôn Đình Quân có ”Tống nhân đông du”… Sự tiễn đưa đều rõ ràng như Ðỗ Phủ có ”Tân hôn biệt”, Tào Ðường có ”Thiên Thai tống biệt”, Lý Ích có ”Hỷ ngoại đệ, hôn ly biệt”

Cảnh tiễn biệt này sang Việt Nam đã được lột xác mang sắc thái phương Ðông đậm đà hương vị gia đình, huyền ảo đầy hư cấu cho bạn bè, cho người yêu. Ta có thể tìm thấy trong thơ Thế Lữ với ”Bên sông đưa khách”, trong Nguyễn Đình Thư với ”Tống biệt”, trong Phạm Văn Dật với ”Tiễn đưa”, trong Huy Thông với ”Anh-Nga” , Trần Huyền Trân có “Lưu biệt”… dành cho bạn bè. Cuối cùng cho một tình yêu qua ”Giản dị” của Hồ Drếnh hay trong ”Một mùa đông” của Lưu Trọng Lư hoặc ”Tiễn người ra khỏi lòng tôi” của Hoàng Định Nam. Đặc biệt, TT có tiễn cả chính mình trong “Lưu biệt“, vừa tiễn người ra khỏi lòng như TBH.

Trong TBH, nhân vật nam vừa mang giấc mộng ra đi với “chí nhớn chưa đầy nửa tấc gang” vừa ray rứt với quá khứ buồn đau. Tiếng lòng kia thắt lại theo câu ”tống biệt” ngày nao trong HSHTG:

Ðâu biết lần đi một lỡ làng

Dưới trần gian khổ chết yêu đương.

Quá khứ hiện dần với dòng sông chia cắt:

Gió về lạnh lẽo chân mây trắng

Người ấy sang sông đứng ngóng đò.

Con đò đi mất, chỉ còn lại người bên sông buồn một mình. Buồn chết nhưng làm sao mà khóc? Giọt nước mắt của con người lụy tình kia sắp rớt thì người nam nhi (Dũng. Trí. Nhân) hùng dũng… nuốt vào lòng! Thế mới có cảnh đưa người ra đi (người: ta và em), vừa đưa lòng đi (ngươi) ra đi một lượt.

Nhân vật ”Ta” đang tâm trạng buồn đau khi phải đối diện với xót xa chính mình ”đầy hoàng hôn trong mắt” đã nhanh chóng chuyển sang tâm trí can trường. Đó cũng là tiếng nói chung của những người trai thời loạn muốn bứt phá khỏi nơi chỉ đủ “cắm chặt một chiếc bè“. Đây cũng chính là nét đặc biệt của thể “Hành“:

Hãy đứng dậy vứt chiếc cầm ảo não

Tôi cần nghe những khúc nhạc rất hùng.

(“Giận khúc nam ai” Nam Trân)

Bi mà không lụy là vậy. Người con trai trong TBH cũng thế. Chàng chọn con đường ”ly khách” để từ bỏ một quá khứ buồn đau, đen tối không sáng sủa. Không đi không được. Không đi thì rớt vào bi kịch đã có sẵn mà đoạn thơ bị cắt bỏ đã nói đầy đủ ý này. Ði nhưng chưa biết đi đâu? Thái tử Đan nước Yên đưa Kinh Kha qua sông làm tráng sĩ (Kinh Kha không qua sông hành thích Tần Thủy Hoàng thì không gọi là tráng sĩ). Nhân vật nam trong thi phẩm không được đưa ”qua sông” (nói theo văn bản), không dự định làm cái gì cả nên không thể mang danh vị ”tráng sĩ” cũng không thể là ”chinh phu” như ”chàng tuổi trẻ” trong ”Chinh phụ ngâm” vì có ra gió bụi biên thùy gì đâu? Chàng trai trẻ này cũng không gọi là ”nam tử hán, đại trượng phu” được vì có mài gươm dưới trăng chờ giết thù như Ðặng Dung hay làm một việc gì to tác xẻ núi lấp sông, ”đội trời, đạp đất, vẫy vùng bốn bể” như Nguyễn Công Trứ đâu?

Con đường chàng chọn chỉ như một người ra đi ”ly khách – người ra đi” mà thôi. Dây dưa mãi, cuối cùng cũng phải chọn đi xa trong bỡ ngỡ ”Người đi? Ừ nhỉ! Người đi thực!”. Tưởng nó (ta) nói đùa cho hả chí làm trai, ai ngờ nó (ta) đi thực. Không tin thì phải tin bởi từ ”Ừ nhỉ” này. Sự ”gật gù” trên như đồng tình cho dự định mà người ra đi dứt khoát với quá khứ.

Hình ảnh ”ly khách” chỉ người đi xa chập chờn trên con đường nhỏ mang hoài bão một ”chí lớn” mà ”đoạn tuyệt” với quá khứ nhưng hiện thực chí lớn ấy cũng chỉ ”hồn bướm mơ tiên”! Lâu đài cứu cánh lại xây trên cát nên sóng trào, cát lỡ. Người đi rồi như cũng chưa đi. Mộng chưa tròn thì hiện thực sống dậy.

- Giá trị văn học sử 4 câu cuối bị cắt được phục hồi:

Hơi thu đầu núi giá lên trăng

Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.

Ly khách ven trời nghe muốn khóc

Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm.

Ðoạn cuối này có nhiều dị bản nhưng cũng đều nêu lên một tâm trạng thật: Nỗi buồn cố hữu chưa thoát ra được hiện thực bằng mộng ảo ra đi (ly khách). Nó hợp với đoạn đầu là hình ảnh thực nhất của thi phẩm mà tiếng lòng phát ra đầy đủ ý nghĩa nhất (tiễn đưa lòng) so với các đoạn giữa đã dàn dựng, hư cấu cảnh một gia đình chia tay trong thời loạn lạc.

Ly khách nhỏ bé kia ôm ”chí nhớn” mơ hồ để rồi cô đơn, lạnh lẽo, trống vắng theo ”hơi thu đầu núi” như Ðức Hồ trong ”Tình bơ vơ”:

Ôm hôn gió bụi bên đường

Tình người lữ khách dầm sương lạnh lùng.

(Từ ”mây thu” không gợi lên được sự lạnh lẽo bằng từ ”hơi thu” kéo theo luồng gió lạnh. Dùng ”gió lên trăng” cũng chưa lột tả hết cái lạnh lẽo của người đi bên triền núi). Ta cũng cân nhắc khi dùng từ ”ly khách” theo dị bản ”Ly khách ven trời nghe muốn khóc” ở câu thứ ba đoạn cuối so với “Buồn ở lưng trời nghe đã lại”.

Câu thứ ba ”Buồn ở lưng trời nghe đã lại” kết bằng dấu nặng theo từng đoạn trên là: ”vàng vọt, trở lại, hạt bụi” đã lại có giá trị vần điệu riêng cho từng đoạn khiến cho thi phẩm đọc lên nghe suông hơn sự kết bằng dấu ngang; ”như sen”, kết bằng dấu sắc: ”mắt biếc” (những câu thứ ba trong mỗi đoạn bốn câu). Thế nhưng, hình ảnh “ly khách” đột ngột biến mất ở phần cuối khiến cả đoạn phục hồi mất chủ thể. “Buồn ở lưng trời nghe đã lại“, ai cũng cảm nhận được. “Ly khách ven trời” kia mới là chủ thể của không gian mênh mông buồn tênh, lạnh lẽo tấn công.

Hình ảnh ”ly khách” bước đi chưa lâu lắm theo văn bản khi ”trời chưa vào thu” đến ”hơi thu đầu núi” chỉ mới từ hạ chớm thu với sự hăm hở mơ hồ theo phân thân của con người thứ nhất (ngươi) tỉnh táo, can trường biến mất. “Ly khách” chỉ còn lại dưới bóng trăng làm bạn với chính cái bóng tưởng như cô đơn của mình.

Trăng với bóng chính là sự tồn tại thực nhất khi con người trở về với chính mình để mà ”nửa soi gối chiếc, nửa soi dặm trường”. Hình ảnh ”ly khách” mất đi thì hình ảnh người ra đi cô đơn trở về không còn ”dửng dưng” với thực tại nữa. Nỗi buồn từ buổi ”chiều hôm trước” như tồn động, sống dậy bám theo, khó gỡ!

Một dị bản khác: ”Cơn lạnh chiều nao đổ bóng hằng” để đi với từ ”trăng” và từ ”căm” nhưng ”bóng hằng” chưa rõ nghĩa lắm. Nếu hiểu ”bóng in dấu” thì phải là từ ”hằn” còn hiểu theo ”bóng hằng nga” làm bạn cùng người đi thì chẳng hợp lý vì người ra đi đã có ánh trăng in bóng mình soi xuống mặt đường làm bạn rồi. ”Bóng hằng” kéo theo từ ”hờn căm” là một tính từ nổi, đọc không thấy khác nghĩa nhưng nhìn kỹ thì từ ”căm” ngó hung hăng trái với giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng toàn thi phẩm.

Bốn câu cuối không cho thấy chủ thể. “Ta – Ngươi” hay “Ta – Người” cũng biến mất. Giá trị hình ảnh ”ly khách” đã chuyển sang giá trị hình tượng với nỗi buồn, cơn lạnh, bóng thầm này có thể ứng cho tất cả con người trong cảnh loạn ly trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Ngoại cảnh (thu, núi, trăng, chiều, trời, đời). Nội tâm (hơi, giá, lạnh, thầm, buồn, xô động, hờn câm) song song đi với nhau không tách rời được nữa. ”Ly khách bên trời – lưng trời – nghe muốn khóc” tức người ra đi dù có cảm nhận mẹ, chị, (chiếc lá bay, hạt bụi) đi bên cạnh mà vẫn cảm thấy trống vắng. Buồn thương trở lại với ”hơi rượu say” :

Sầu hận cũ tim ta ai biết được.

Người vui tươi ta mãi mãi căm hờn

Thời gian chảy đá mòn sông núi lỡ.

Lòng ta luôn còn mãi vết thương đau.

(Chế Lan Viên)

Thiết nghĩ: Thời gian có thể làm ”đá chảy, sông mòn, núi lở (sự vật kiên cố bất di, bất dịch, vững chắc) nhưng không làm tan ”vết thương lòng” (yếu mềm).

Ðối lập giữa cái mềm yếu ớt với cái bất di bất dịch để cho thấy nguyên nhân của ”vết thương lòng” chính là ”Sầu hận, căm hờn”. Văn tự tại ngoại này quả ý nhị thay! Nhưng ”căm hờn” nghe bề thế… dữ dội với chất ”tính từ” chỉ mức độ của nó biểu lộ hết cả ruột gan ra bên ngoài và có thể… bùng nổ một hành động như từ ”hờn căm”.

TBH đã tồn tại dị bản có chứa hai từ ”hờn căm ”và ”hờn câm”. Người viết chọn từ ”hờn câm” nuốt vào lòng để từ này đi với chiếc ”bóng thầm” của đoạn thơ cuối hợp với bút pháp nhiều nghĩa trầm lắng, mơ hồ đầy hấp dẫn của toàn bộ thi phẩm có một ”tâm sự riêng mang như vết xước, thời gian xa xót cháy trong lòng” (Hỏi thầm – Mạc Phương Đình) giữa ”tiếng đời xô động, tiếng hờn câm”. Trong những bài thơ còn lại hiếm hoi của TT, lời thơ khí phách nhưng rất hiền từ ngay bài “Căm thù“. TT có thể nói tới chữ hận, chữ hờn nhưng có những bài như Vọng Hương Sơn, Chết, Ngậm ngùi cố sự, Lưu biệt… và những bài thể hành, yếu tố nhân bản vẫn chiếm toàn bộ sáng gần hai mươi tác phẩm.

Hiện thực xã hội đã gói gọn trong bức tranh ly loạn. Nếu đoạn bốn câu đầu là bức tranh có sắc màu rất buồn nhưng rất ”tĩnh” thì bốn câu cuối này lại là bức tranh toàn những âm thanh rất buồn nhưng lại ”động”. Kết cấu bốn câu đầu và bốn câu cuối như thế rất cân đối (không hiểu sao, HT – HC lại cho đoạn thơ đầu tới 6 câu? mà cắt 4 câu cuối?). Mới nhìn, mới đọc, mới nghe, ta tưởng chừng như nhân vật ly khách kia cô đơn nhưng thật sự những âm thanh động kia lại hợp thành ”hành khúc” để nâng bước chân người đi.

”Ly khách” thật ra nào có mất đi! Hình tượng này đã hòa vào cuộc đời, thâm nhập vào cuộc sống với đầy mùi vị buồn vui, ấm lạnh, tương hội, biệt trùng hòa tan vào thiên nhiên, làm bạn với trăng sao với bốn mùa mưa nắng. Ta nghĩ rằng có thấm thía mùi đời, người ra đi ấy mới có thể chọn một cách sống tốt đẹp hơn.

Ðây là giá trị văn học nhân bản cuối cùng và là nét nhân bản chính của thi phẩm.

* Tổng kết:

Một phương cách sống mới từ hiện thực đau thương. Ðó không phải là ”lý tưởng” mà kẻ ”ly khách” kia ước muốn hay sao? Sự thôi thúc đó là cái gì, “thi nhân đầu bạc sớm hơn ai” này đã không nêu được cụ thể hơn ngoại trừ một ý đi tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn, có ích hơn.

Ngày hôm nay cái ”cụ thể” lại càng không được nêu. Bởi một lẽ: Cụ thể hóa một tác phẩm theo phương pháp ”mổ sẻ” kiểu bác sĩ sẽ làm hỏng đi tính nghệ thuật riêng cần nên có của một thi phẩm. Một bài câu chữ có vần, điệu, ý tưởng phong phú cũng chỉ mới gọi là ”Thơ” nhưng đã gọi là ”Thi phẩm” thì giá trị vượt trội của thi phẩm so với các bài thơ khác ở chính chỗ: Thấy mà lý giải không ra. Biết mà không sao hiểu hết. Hiểu rồi chẳng viết thành văn. Nghĩa là ”ra đi vẫn ngoái đầu nhìn lại”. Luyến tiếc mãi, suy luận hoài: “Vừng, mè ơi! Mở cửa!”. TBH đã cho ta cái cảm giác này khi được đọc toàn bộ thi phẩm.

HT – HC trong TNVN khi nói về Nguyễn Đình Thư có viết ”Khách yêu thơ gặp được một bài thơ hay là một cái thú. Nếu bài thơ chưa từng in trên mặt giấy cho hàng vạn người xem thì cái thú lại gấp hai. Thơ in ra rồi hình như mất đi một tí gì, có lẽ là một ít hương trinh tiết’‘. Có lẽ muốn giữ cho TBH đã hay kia ”một ít hương trinh tiết” mà hai ông phải… cắt bỏ đoạn cuối chăng? Hay là vì nghĩa của ”Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm” ấy? Xô động vì lẽ gì? Hờn câm vì sao? TBH có nhiều cách hiểu. Vậy thì hãy chọn cách tươi sáng mà hiểu để cho thi phẩm vừa hay vừa mang tính nhân đạo. Nên ta có thể nói: Thơ cho in không cần phải cắt chỗ này, xén chỗ kia gọi nôm na là ”nhuộm sắc bản thảo” theo ý đồ của mình mà làm giá trị thực sự của văn bản bị tước bỏ một cách không tôn trọng tác giả. Ngoài cái việc sửa chính tả là cần làm, chúng ta đừng tự tiện thêm bớt từ ngữ câu chữ vào văn bản mà không thông qua tác giả. Nếu tác giả không còn nữa thì điều ấy càng nên được bảo toàn.

Thi phẩm TBH mở ra đã toàn dấu hỏi của một bức tranh ”tĩnh” rồi khép lại cũng toàn dấu hỏi của một bức tranh ”động” nhưng cái ”tôi” cá nhân đã lẫn vào cái ”ta” cuộc đời không bao giờ cô đơn giữa ”tiếng đời xô động”. Khúc nhạc ”tống biệt” này trong ngày mai chắc chắn sẽ có người viết tiếp điệu thức cuối cùng. Nói như Ts. Chu Văn Sơn ”Bài thơ chất chứa những uẩn khúc trái ngang này vẫn rất cần những tri âm”.

Nếu Trần Đăng Khoa cho bài ”Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư là ”bài thơ thơ nhất” thì TBH không có danh vị nào xứng hơn là ”Bài thơ Tống biệt hay nhất Việt Nam” và có lẽ nó còn vươn tận sang bên cái nôi của thi ca dòng tống biệt thời Ðường với thể ”Hành” được hiểu như là ”hành khúc”. Một hành khúc nhẹ nhàng, êm diệu của thi ca.

TBH còn là bài thơ có nhạc, có họa, có cả chất tự sự, trữ tình và kịch tính gieo nhiều dấu hỏi nhất trong lòng người đọc. Chính giá trị bắt nguồn từ hiện thực xã hội thời ly loạn qua bàn tay khéo léo như vô tình của tác giả đã dựng lên hình tượng nhân vật ly khách bay bỗng trên nhiều tình huống phức tạp, bí ẩn được giải quyết khôn khéo đầy tính nhân bản làm cho thi phẩm này có giá trị vĩnh cữu. ”Hành” không còn chỉ là nghĩa ám chỉ lối văn cổ phong Trung Quốc nữa mà nó được coi như một khúc nhạc tiễn biệt – khúc ly ca – đệm đàn cho thi phẩm TBH.

Ðời có muôn vàn nẻo đi. Một ngày nào đó, ta cần chia tay với những kỷ niệm, với những con người thân quen, TBH sẽ là khúc nhạc tiễn chân người. Nếu một thời đại trong thi ca có thể bị quên lãng thì hãy lấy TBH này làm hành trang tiễn biệt. Nếu không qua được cây cầu nhân duyên đã lỡ thì khúc ly ca này có thể sẽ giúp ta lãng quên!

Đó chính là giá trị ”nhân văn – nhân bản” mà TBH đã có tức là nhân vật trong TBH có ”khả năng cảm thụ thế giới và cảm thụ bản thân” để tự quyết định cuộc đời mình với hệ thống chằng chịt những bâng khuâng, ray rứt đời thường bao quanh.

Nhận xét theo hệ thống lý luận văn học, Nguyễn Xuân Nam trong ”Tự điển văn học – Bộ mới” đã viết ”Không có những suy tính dằn vặt, trăn trở giữa thiện ác, tốt xấu, lành dữ, đúng sai, không có suy nghĩ gì khi hành động, con người đã mất hết tính người”. Chính sự giải quyết khéo léo qua ngòi bút vừa hiện thực vừa lãng mạn cùng thi pháp “chuyển nhượng nhân vật” tuyệt xảo của TT dành cho các hình tượng nhân vật mà thi phẩm qua bao thế hệ vẫn được độc giả dành cho một sự ưu ái hiếm có trong lịch sử văn học Việt Nam vì tính ”nhân dân” của thi phẩm. ”Tính nhân dân đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phổ cập và nâng cao làm sao cho tác phẩm văn học nghệ thuật được dân hiểu và yêu thích” (Nguyễn Văn Hạnh – Tự điển văn học – Bộ mới ). TBH đã không là một tác phẩm văn học được yêu thích và ngày càng được hiểu theo chiều tươi sánh nhất hay sao?

Một thi phẩm có tĩnh có động, có bi mà không lụy, từ cõi mênh mông, TBH – lòng tiễn đưa lòng mãi vỗ vào lòng ta những tiếng sóng như một thuở ta chưa từng có hoàng hôn để cho ta luôn là cánh sen giữa tháng ngày không còn êm ả với cả mùa hạ ly tan gợi chớm thu về biền biệt xa cách còn nỗi nhớ thì đã một lần tiễn biệt là xa nghìn trùng.

Ngày tháng nào đã ra đi khi ta còn ngồi lại” với Trịnh Công Sơn đã kết thúc một khúc ca ”Tống biệt ” mà TT – T.T.Kh đã nói hộ cho ta một lần chia tay với tiếng lòng không tên tuổi!./.

----

A. Những vấn đề tồn động chưa thống nhất:

Thời gian 1937 – 1938, do những va chạm mảng (họa sĩ họ Lê và cô gái gỡ Ti-Gôn ở Hà Nội) từ động đất (Thanh Châu) tạo nên sóng thần (Tsunami) T.T.Kh xuất hiện trên thi đàn với 4 đợt sóng (4 bài thơ HSHTG, BTTN, BTCC, ĐACC) để lại các vụ lở đất (những bút hiệu ký TT ăn theo) tạo thành những cơn sóng địa chấn (bao nhiêu ngòi bút nhảy vào lập mạng nhện, thêu dệt hậu tình sử).

I. Bốn bài thơ ký T.T.Kh.:

1. Bài thơ HSHTG đăng trước hay đăng sau BTTN?

- HT-HC: (TNVN, sđd): “Hồi tháng 9-1937, Tiểu thuyết thứ bảy đăng một chuyện ngắn của ông Thanh Châu: ‘Hoa ti-gôn’. Ít ngày sau, tòa báo nhận được một bài thơ nhan đề ‘Bài thơ thứ nhất’, rồi lại nhận được bài nữa: ‘Hai sắc hoa ti-gôn”’.

- Thanh Châu (Những cánh hoa tim, sđd): kể; “Được ít lâu T.T.Kh. lại gởi đến một bài nữa (tuy là bài thứ hai, nhưng lại thấy đề là “Bài thơ thứ nhất”… Hai sắc hoa Ti-Gôn” là “bài thơ đầu của bà T.T.Kh. kèm theo với một bức thư xin chữ ký của tôi… Được ít lâu T.T.Kh. lại gởi đến một bài nữa (tuy là bài thứ hai, nhưng lại thấy đề là ‘Bài thơ thứ nhất’ “.

- Phạm Thanh: (TNVNHĐ, sđd): “Nữ sĩ gởi đến cho nhà báo trên một bài thơ nhan đề là Bài thơ thứ nhất, kế một bài nữa là bài Hai sắc hoa ti-gôn. Cả hai, đều ký bút hiệu là T.T.Kh”.

Tác giả này coi như chép lại từ HT – HC.

- NTK (T.T.KH. nàng là ai? sđd): “Hoa Ty-gôn thực sự đã khơi dậy vết thương lòng của Thâm Tâm và cô gái tên Khánh. Một ngày, Tòa soạn báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy bỗng nhận được bức thư, trong đó chỉ có một bài thơ nhan đề Hai sắc hoa Ty-gôn… “.

* Theo ngày đăng, HSHTG được gởi trước là chính xác.

2. TTTB đăng bao nhiêu bài thơ của T.T.Kh?

- HT – HC (sđd): Chỉ có hai bài. “‘Bài thơ thứ nhất’ rồi lại nhận được một bài thơ nữa: ‘Hai sắc hoa Ty-gôn’… Hai bài này đều ký tên T.T.Kh. và đều một nét chữ run run. Từ đấy toà soạn Tiểu thuyết thứ bảy không nhận được bài nào nữa…”.

- Thanh Châu: (Nói thêm về T.T.Kh., sđd): “truyện ngắn đã gây xúc cảm cho T.T.Kh., nên sau đó tòa soạn đã nhận được mấy bài thơ của T.T.Kh. gửi đăng…”. Tức là Thanh Châu chưa khẳng định bao nhiêu bài.

- NTK(sđd): Ba bài trừ bài ĐACC.

* Không sách vở nào ghi khác hơn, chúng ta tạm thời thống nhất T.T.Kh gởi đăng 3 bài trên TTTB trừ bài ĐACC.

3. Thời gian đăng:

- HT- HC: (sđd): “Ít ngày sau… rồi lại nhận được…”. Tức chẳng xác định thời gian chính xác.

- Thanh Châu (sđd): “Cùng dạo ấy“: Chưa xác định thời điểm.

- NTK: (sđd): “Hai sắc hoa Ty-gôn” đăng trên “Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 179, ngày 30-10-1937…”. “Bài thơ thứ nhất”, “số 182, ngày 20-11-1937″… “Bài thơ cuối cùng” “số 217, ra ngày 23-7-1938…”

* Thống nhất theo thời điểm của NTK. Lý do vì sao, chúng ta đã đọc trong phần I.

4. Bài thơ ĐACC:

- Đăng ở đâu? Thống nhất đăng trên “Phụ Nữ Thời Đàm” và “Ngọ Báo” do J. Leiba in lại. (NTK, sđd).

Theo Nguyễn Tố (VNTNTC, tr 431) chính TT đã đăng bài này lên “Phụ Nữ Thời Đàm”: “Đọc xong bài thơ Đan áo cho chồng, Tuyết trao tôi xem. Tôi thấy bài thơ đó hay, liền đăng vào báo Phụ Nữ Thời Đàm…”.

- Tại sao ba bài đăng một nơi còn một bài lại đăng chỗ khác? Chẳng ai lý giải được.

Nhận xét chung: Ngoại trừ Thanh Châu là người trong cuộc làm việc trực tiếp với TTTB còn lại, những tác giả khác đã không ghi rõ nguồn trích? Ngay cả những bài của Thanh Châu, tác giả Hoài Việt, Thế Nhật, NTK, NTL… trích trong sách mình cũng chỉ nói tới “đăng trên TTTB”. Trong khi TTTB ra đời năm 1934 và tiêu luôn khi cách mạng 1945 tới. Nơi nào đã lưu trữ TTTB để các tác giả này lấy trích? Ai đã từng đọc được TTTB? Nếu HT – HC đọc được thì tại sao, hai ông chỉ nói T.T.Kh gởi đăng có 2 bài?

Câu hỏi này bỏ ngõ cho các nhà nghiên cứu yêu thích đề tài này có… “sân đá bóng!”.

II. Nguồn cảm xúc từ đâu tới T.T.Kh và từ thơ T.T.Kh tới người đọc?:

1. Từ Thanh Châu: Cảm xúc từ truyện ngắn của Thanh Châu “Hoa Ti-Gôn” nên T.T.Kh. đã làm HSHTG:

Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết

Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa

2. Từ thơ T.T.Kh sinh ra chuyện:

- Nguyễn Bính viết “Dòng dư lệ” tức “Cô gái vườn Thanh” (đổi tên năm 1940) đề “Tặng T.T.KH”.

- J, Leiba đăng lại bài ĐACC từ “Phụ Nữ Thời Đàm” lên “Ngọ Báo” với 4 câu thơ “Tặng T.T.KH.”

3. Từ sinh chuyện, sinh ra… giành giật:

Đồn đại TT làm “Màu máu Ti-Gôn”, “Các anh”, “Dang dở” đăng trên TTTBđể “giành giật người yêu” với NB và J. Leiba trên thi đàn.

- Bài thơ “Các anh”, “Màu máu hoa tim” ký Thâm Tâm liên quan tới T.T.Kh đã đăng trên TTTB được MGL in vào sách “Thơ Thâm Tâm”.

Chúng ta chỉ xét những bài viết về việc này của những tác giả đã in thành sách như: MGL (Thơ Thâm Tâm, Nxb VH – 1987), NTL (VNTNTCTT, Nxb VH – 2000), Thế Nhật (T.T.Kh nàng là ai?, Nxb TT-VH -1994), NTK (VNKNQH, Nxb Phuong Hoang – 1996), Hoài Việt (Thâm Tâm & T.T.Kh Nxb, VH – 1997)… Những cuốn sách này cũng chưa phải là nguồn chính xác là TT đã từng có những bài ấy.

III. Chuyện tình TT với người con gái tên Khánh có thật không?:

1. Có thật qua những lời kể:

- Nguyễn Vỹ: Trong“Thâm Tâm và sự thật về T.T.KH.” (VTSTC, sđd) kể rằng: “Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn-Điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe. Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp Nhất trường Tiểu học Sinh-Từ…”.

- Hồ Thông: Trong “Trong lửa đạn thù” (NTK, sđd): “Vào những ngày đầu của cuộc chiến chống thực dân Pháp năm 1947, tình cờ tôi được điều về đơn vị có nhà thơ Thâm Tâm hiện diện…Bữa ấy, ở xa trận địa, nằm bên nhau trong lán giữa núi rừng, Thâm Tâm đã tâm sự hết sự thực cho tôi nghe… Anh hỏi tôi tên thật của T.T.Kh? Nàng, ai cũng phỏng đoán là Trần Thị Khánh. Ngày ấy, khi đưa nàng coi kết quả kỳ thi Tiểu học, tôi nhớ mài mại là nàng họ Từ… Đôi khi gạn hỏi về lai lịch gia đình nàng thì nàng đều phụng phịu bảo ‘Em họ Từ hay họ Trần, cái đó đâu có đáng kể. Sao anh cứ hỏi mãi? Đúng, em gốc Thường-Tín đấy!…”

- Hoài Anh (tác giả những bài hội thảo về Hồ Biểu Chánh): “Thơ T.T.KH, sự thật hay huyền thoại” (thanhtung.net): “Năm 1951, nhân làm công tác địch vận và quân báo của Liên khu III, tôi vào nội thành Nam Định hoạt động, ngẫu nhiên được đọc một bài báo của Anh Đào, đăng trên một tập san của Hà Nội tạm chiếm, tôi xiết bao kinh ngạc khi thấy trong đó có kể tường tận về mối tình giữa Thâm Tâm và T.T.Kh. (Ông Anh Đào bảo đó là tên viết tắt của Thâm Tâm và Khánh).

+ Ngân Giang, Nguyễn Tố (Nhật báo Sống, ngày 15-4-1967 Sài Gòn): “Lúc đó, Khánh là người mà Thâm Tâm yêu đến say đắm. Bởi vậy đến khi Khánh đi lấy chồng thì Thâm Tâm đau khổ đến phát điên…”.

2. Không nghe nói về chuyện tình này:

- Hoài Anh (web đd): “Sau ngày giải phóng thủ đô năm 1954, tôi gặp các nhà thơ Trần Huyền Trân và Nguyễn Bính (mới ra tập kết). Tôi kể lại việc tôi đọc được bài báo viết về mối tình của Thâm Tâm với T.T.Kh, tức bà Khánh thì hai ông đều nói chưa nghe thấy chuyện ấy bao giờ”.

Các nguồn này, hầu hết có trong cuốn VNTNTCTT của NTL.

IV: Phỏng đoán:

1. Khánh là… Trần Thị Khánh, cháu gái Tế Hanh:

- Hoài Anh (web đd): “Một một bài báo trên nguyệt san Triền sóng xanh xuất bản tại Cần Thơ tháng 3-1966 ông Thạch Hồ dẫn lời ông Giang Tử nói rằng: ‘Tôi đã gặp thi sĩ Tế Hanh trong một chuyến xe lửa đi Quảng Ngãi năm 1944, nhà thơ Tế Hanh cho biết T.T.Kh là em gái đồng tông của Tế Hanh tên thật là Trần Thị Khánh, và còn kể lại mối tình thơ mộng và trắc trở rồi tan vỡ giữa thi sĩ Thâm Tâm Nguyễn Tuấn Trình với em gái T.T.Kh”.

- Nhà thơ Tế Hanh: Theo Hoài Anh: “Nhà thơ Tế Hanh đã khẳng định là ông chưa hề gặp ông Giang Tư nào đó, và giữa ông với T.T.Kh không hề có chút quan hệ nào cả”.

- Thế Nhật (sđd) Do đó, ông Hoài Việt muốn kiểm chứng tin này có xác thực đã phải lặn lội để hỏi tác giả“. Tế Hanh lắc đầu: “đó là tin vu vơ”.

2. Khánh là… T.T.Kh?

- Hoàng Tiến T.T.Kh là ai?” (Nhân dân chủ nhật số 23 tháng 7-1989, Hoài Việt, Thế Nhật, sđd)): Nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu, và tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm về họ tên tác giả Hai sắc Hoa ti-gôn được công bố dưới đây. Cùng nghe hôm đó với tôi có nhà thơ Trần Lê Văn và nhà thơ Tú Sót. T.T.Kh. tên thật là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Hai người yêu nhau, nhưng biết không lấy được nhau, hẹn giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này. Cô Khánh đọc Tiểu thuyết thứ bảy in truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu (số tháng 9-1937) xúc động, tự thổ lộ câu chuyện riêng bằng bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn và gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy… Được biết T.T.Kh. về sống ở Thanh Hóa đã bốn năm nay, không biết bây giờ bà còn hay mất… “.

- Thế Phong “Thâm Tâm và T.T.KH” (Lược sử văn nghệ Việt Nam, Nhà văn tiền chiến 1930-1945, Nxb Vàng son, Saigon – 1974) cùng cuốn “T.T.KH nàng là ai“, Nxb VHTT – 1994): “Bài thơ Các anh hãy uống thật say của Thâm Tâm, nói rõ lòng mình yêu và chính bài thơ ấy cho biết KH. là Khánh. Vậy chúng ta tạm tin giả thuyết này, nhưng các bài thơ của Khánh đăng báo chỉ ký là T.T.KH, mà Thâm Tâm cho là Thâm Tâm Khánh”.

Nhưng sau đó, Thế Phong trong cuốn “T.T.KH nàng là ai” (Nxb VHTT- 1994) viết chung với Thế Nhật đã phủ nhận điều mình viết khi cho rằng T.T.KH. chính là bà Trần Thị Vân Chung tức Vân Nương!?

- Hoài Anh:Ông Anh Đào khoe là năm 1941, trong một lầu nhỏ phố Mã Tây, Hà Nội, Thâm Tâm đã thú nhận với ông và nhà thơ Nguyễn Bính rằng: ‘T.T.Kh là tên một thiếu nữ mà trước kia tôi đã yêu… T.T.Kh tức là Thâm Tâm hay Tuấn Trình (tên thật nhà thơ) còn Kh là Khánh. T.T.Kh muốn đặt tên T.T để nhớ con người cũ Thâm Tâm… “Tóm lại, hai người đưa ra vấn đề đầu tiên đã mâu thuẫn nhau: Ông Anh Đào bảo T.T.Kh là Thâm Tâm Khánh, ông Giang Tử bảo là Trần Thị Khánh, nhưng khi nêu hai nhân chứng là Nguyễn Bính và Tế Hanh, thì cả hai người đều phủ nhận…”??!

- Phạm Thanh: TNVN H Đ (quyển thượng):Nhưng thật T. T. Kh. chẳng phải là người yêu của ông nào trong Tiểu thuyết thứ bảy. Nữ sĩ chính là Trần Thị Khánh, một nữ sinh nhà ở phố Sinh Từ, Hà Nội, có tâm hồn thơ lắm. Nữ sĩ có yêu một thanh niên, hai người đã cùng đi lại, hứa sẽ thành hôn, nhưng nửa chừng vì sự ép buộc của gia đình, nữ sĩ đành phải hát khúc chia ly, về làm vợ một người khác tên Nghiêm, làm công cho một hãng buôn nọ”.

- Nguyễn Tố: “Những ngày sống với thi sĩ T.T.Kh., Hai sắc hoa ty gôn” (VNTNTCTT của NTL, sđd tr 431): “Thật tôi không ngờ đêm ấy tôi lại ngồi đối diện với con “người ấy”của T.T.Kh…Thâm Tâm bỗng cất tiếng cười hỏi tôi:

- Anh có hiểu vì sao lại có Bài thơ cuối cùng không?

Tôi lắc đầu. Thâm Tâm nói tiếp:

- Có một hôm Khánh (T.T.Kh.) làm xong bài Đan áo cho chồng đưa cho người bạn gái thân nhất đời của nàng xem. Cô bạn đó tên là Tuyết… Đọc xong… Tuyết trao tôi xem.Tôi thấy bài thơ đó hay liền đăng vào báo Phụ Nữ Thời Đàm… Đột nhiên thấy bài thơ không định đăng báo của mình lại in trên tờ Phụ Nữ thì lấy làm bất mãn và đau khổ vì lâu nay chồng Khánh đã hành hạ Khánh vì ghen với “người ấy” của Khánh. Vì vậy, Bài thơ cuối cùng được in ra”. Tôi nghe Thâm Tâm nói cũng có lý, mà kể về phương diện tinh thần thì Thâm Tâm quả là con người mơ mộng, có biệt tài làm thơ, vẽ nữa, thật xứng đáng là ‘người ấy’ của T.T.Kh. (Nhân Loại bộ mới)”.

Bài không định đăng báo” mà… bị đăng nên “bất mãn, đau khổ” của T.T.Kh nghe như… cải lương. Lý do đơn giản? Làm bốn bài mình đăng thì ba bài mình đăng, không sao, người khác đăng lên thì lại thấy… sao! Là sao? Biết chồng hay ghen, hành hạ mà vẫn tiếp tục ra thơ, T.T.Kh quả “uống mật gấu”, “ăn gan hùm”! Lời kể của Nguyễn Tố vô tình hạ thấp giá trị bài thơ và nhân phẩm đáng được có của hai bút hiệu này.

3. Ai thấy được T.T.Kh?

- Trần Quân – Trần Viết Phương (Văn nghệ tiền phong số 657, ngày 15-6-1971: “Tôi được đọc một bài thơ với nét chữ của T.T.Kh, trên giấy màu xanh, tuy nhiên Thanh Châu cũng chưa gặp T.T.Kh”.

- MGL (sđd): cụ Lương Trúc đã có dịp gặp đôi ba lần?”.

- Hoàng Tiến (sđd): “Được biết T.T.Kh. về sống ở Thanh Hóa đã bốn năm nay, không biết bây giờ bà còn hay mất”??

- Thế Nhật (sđd): “Đúng T.T.KH ở Thanh Hóa với chồng thật”?!

Các cuốn sách của các nhà nghiên cứu đăng tin này, cũng chẳng biết lấy nguồn từ đâu? Trong sách này có đăng “thủ bút” của T.T. Kh Vân Chung?? Vậy, phiền Trần Quân và Trần Viết Phương dùng mắt thần Dương Tiễn rọi qua coi có phải không? Bà Oanh, chị TT, chỉ mới đọc bài “Đây cảnh cũ, đâu người xưa” của TT?? lấy bút hiệu Trăm Năm trên “Tiểu thuyết xa xu” có một lần mà thuộc lòng, đọc vanh vách cho Hoài Việt chép (?!) huống hồ nét chữ?

Cụ Lương Trúc có dịp gặp T.T.Kh đôi ba lần, làm ơn nhận mặt T.T.Kh là bà Vân Chung (hình trong sách này) thử coi có giống không? Nếu bà T.T.Kh là thật như Lương Trúc nói thì Thế Nhật và TĐT coi như “công dã tràng”. Bà T.T. Kh – Vân Nương của hai tác giả vẫn ở tận Sài Gòn từ khi đất nước chia hai và xuất ngoại sang Pháp chớ nào có hồi hương về Thanh Hóa ở? Còn Thế Nhật gật gù như thế coi như “gà chọi” chưa biết “mèo nào cắn miêu nào”!

- Thạch Hồ và Y Châu (NTL, sđd tr 428): “T.T.Kh là một nhân vật có thật, đã đôi lần đến thăm thi sĩ Thâm Tâm ở phố Khâm Thiên lúc ông này cùng ở chung với Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân”. Tin này thật khó tin.

4. TT là T.T.Kh?

- Nguyễn Vỹ (sđd): “Vì tự ái văn nghệ đối với mấy người bạn kia, Tuấn Trình đã phải thức một đêm, theo lời anh, làm một bài thơ là “Hai sắc hoa tigôn ký T.T.Kh với thâm ý để Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm, để thương tiếc mối tình tan vỡ… Thâm Tâm lấy hết chữ nghĩa trong bức thư đoạn tuyệt tàn nhẫn của Trần Thị Khánh làm bài thơ cuối cùng đó mà vẫn ký T.T.Kh.”.

- Bùi Viết Tân (Thâm Tâm là T.T.Kh?, TĐT, sđd): “Cuối năm 1949, trong một chuyến đi dài ngày từ Liên khu III lên Việt Bắc, tôi có dịp đồng hành với thi sĩ Thâm Tâm… Nhân vui câu chuyện, tôi hỏi anh Thâm Tâm về chuyện những bài thơ ký tên T.T.Kh… “. Bùi Viết Tân dẫn lời TT khẳng định chắc nụi: “Đúng thế, tất cả đều liên quan tới một chuyện tình, nhưng thật ra thì những bài thơ ký tên T.T.Kh. là do mình sáng tác ra cả thôi… Chuyện này chỉ mình và Trần Huyền Trân biết thôi. Nguyễn Bính là một nhà thơ tài hoa nhưng ‘ngây thơ’ lắm…”.

- Hồ Thông (sđd) dẫn lời TT kể: “Người yêu tôi tên là Kh. Khi viết, tôi định ký rõ dưới bài là Thâm Tâm, giản dị vậy thôi, như những bài tôi vẫn thường ký khi đăng báo. Tuy nhiên, cảm về chuyện Hoa Ty-gôn, một tối, tôi lại làm bài Hai sắc hoa Ty-gôn cực tả mối tình của ai kia, và liều chọn một bí danh ký dưới những bài thơ bằng ba chữ viết tắt T.T.Kh…”.

- Ngân Giang (bạn Đào Tiến Đạt – Anh Đào): “Bà cho biết hồi trước có lần hỏi Thâm Tâm về T.T.Kh thì Thâm Tâm trả lời: Thâm Tâm làm thay cho một bạn” theo Hoài Anh (web đd).

- Nguyễn Tố (nhật báo Sống 15-4-1967, Sài Gòn): “Thâm Tâm còn mấy bài thơ ký tên T.T.Kh như Hai sắc hoa ti gôn”.

Đỗ Nhân Tâm (tuần báo Cải tiến số 3, 6-4-1957) theo Hoài Anh: “Ông Đỗ Nhân Tâm kể lại hồi khánh chiến chống Pháp ông đã cùng đi một chuyến công tác với Thâm Tâm từ Liên khu III qua chiến khu Việt Bắc, khi hỏi về bốn bài thơ ký T.T.Kh, Thâm Tâm đã trả lời: ‘Chính tôi làm những bài đó’”.

- Lê Công Tâm (báo Giáo dục phổ thông số 49 ngày 1-11-1959) theo Hoài Anh: “Ông Lê Công Tâm cũng cho rằng thơ ký tên T.T.Kh, do chính Thâm Tâm làm”.

- Hoàng Tấn, theo Hoài Anh: “một người bạn thân của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính từ trước 1945, trong bài viết ở mục ‘Ngàn lẻ một chuyện nhà văn’ đăng tạp chí Văn số 5, tháng 6-1989 và bài viết trong Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số xuân 1990 (ký bút danh Nguyễn Thị Xuân Trâm) cũng khẳng định rằng những bài thơ ký T.T.Kh, do chính Thâm Tâm sáng tác”.

- Hoài Anh (bài, web đd): “Chúng tôi khẳng định: Các bài Hai sắc hoa ti gôn, Bài thơ thứ nhất, Đan áo cho chồng, Bài thơ cuối cùng là do chính Thâm Tâm sáng tác ký tên T.T.Kh…”.

Cuốn VNTNTCTT của NTL đăng những tin này trong “Nghi án T.T.Kh và Thâm Tâm” từ trang 427 – 434. Không biết các ông trên, hay ông dưới này “copy” của ông nào? Từ nguồn nào? Nói không có bằng chứng, chi bằng không nói, “lấy vàng” cất chơi sướng hơn!

5. T.T.Kh là… T.T.Kh:

- Thanh Châu Nói thêm về T.T.KH.” (Hoài Việt, “Thâm Tâm – T.T.KH”,sđd): Riêng tôi, đọc lại thơ T.T.KH tôi ngạc nhiên thấy phong cách thơ bà khác xa thơ của ba ông bạn Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân cùng thời…. T.T.KH. là ai? Có lẽ ta cũng chẳng cần biết rõ đó là ai!”. Lời Thanh Châu bộc bạch chân thật cũng giống như một số người chẳng biết gì về T.T.Kh chứ đâu phải ông “biết mà vẫn giấu” như Thế Nhật nói? Ông giấu T.T.Kh là Vân Chung, mà “mang bầu tâm sự”… rót vào tai Trần Đình Thu chính Vân Chung là “người yêu cũ” của ông?!

6. Bút hiệu T.T. Kh bị… phanh thây?:

- Thanh Châu (sđd): “Vậy T.T.Kh. là ai? Có phải là Trần Thị Khánh? Hay Tào Thị Khê? Hay Tôn Thị Khuê? Trần Thị Khải, Thái Thị Khương? Ai mà biết được”.

- Thế Nhật giải thích bút hiệu: T.T.KH là gì?

“- T chữ thứ nhất là: TRẦN – T chữ thứ hai là: THANH – KH. hai chữ sau cùng: KHÓC. T.T.KH cả hai cùng khóc cho mối tình chân ngoài đời – mối tình thơ trong dòng thơ lệ” (sđd tr 62).

- Một tác giả vô danh: Không biết từ đâu lại nhảy ra lời giải thích gần như copy: “T chữ thứ nhất là TRẦN T chữ thứ hai là THANH KH chữ thứ ba là KHÓC. KHÓC ở đây là khóc cho mối tình có duyên không nợ, khóc cho cái éo le cuộc đờị Tạo hoá chớ trêu kiến cho họ gặp nhau rồi đem cho họ bao nhiêu là nước mắc ngậm ngùi khi xa nhau. THANH là Thanh Tâm. là tác giả của bài “Hoa Ti-gôn” mà tôi đã nhắc ở trên…

TRẦN là Trần Thị Chung, (Tên thường gọi là Trần Thị Vân Chung) Sinh ngày 25-8-1919 tại thị xã Thanh Hoá, Hà Nội. Sinh trưởng trong một gia đình Quan lại thời bấy giờ, Vân Chung có một người anh cả, hai người em gái và một người em trai út. Năm 1934, qua mối mai, gia đình nàng đã hứa gả nàng cho môt. luật sư (Lê Ngọc Chấn, ông đã chết sau khi mãn tù cải tạo học tập). Hiện nay bà cùng các con sinh sống ở miền nam nước Pháp trong một thị xã nhỏ và bà vẫn tiếp tục làm thơ, viết văn với nhiều bút hiệu khác khau như vân nương, tơ sương v.v…” (thovn.net).

Thế Nhật và tác giả vô danh này “banh” bút hiệu T.T.Kh nghĩa là gì y như Hồ Xuân Hương… “tốc váy bà ra”! Nghe Thế Nhật, người viết cũng muốn… “thế mạng” đánh cá là chẳng bao giờ có ai đi lấy cái bút hiệu đến ma cũng chê, quỷ cũng chẳng thèm như thế cả! Cái gì mà Trần Thanh Khóc? Có người chơi ngông, sẽ giải nghĩa rằng, T.T.Kh là… “Tiểu Tử Khùng”!

Bút hiệu T.T.Kh là “Thâm Tâm - Khánh”, “Tuấn Trình – Khánh” dù sao nghe cũng… huyền thoại hơn!

- Nguyễn Thế Bá tức Thế Nguyên (lại Thế?): “T.T.Kh không ai xa lạ, chính là Thẩm Thệ Hà, nhà văn kiêm thi sĩ Thẩm Thệ Hà tên thật là Tạ Thành Kỉnh. ‘T.T’ là ‘Tạ Thành’, còn ‘K’ là do chữ ‘K’ ở đầu và chữ ‘h’ ở cuối chữ ‘Kỉnh’ ghép lại” (VNTNTCTT sđd tr 428).

Nghe có lý nhưng mà lý… cùn! Nếu nói như thế thì Trần Tuấn Khải (Á Nam Trần Tuấn Khải) tác giả của “Tráng sĩ hành” không có những ký tự T.T.Kh với Kh là Khải gần hơn từ K…h (Kỉnh) sao? Đây là tác giả có bài liên quan đến TBH của TT “bà con họ hàng” gần hơn ông Tạ Thành Kỉnh, Tạ Thành Kính nào đó của ông Nguyễn Tố. Thơ của Tạ Thành Kỉnh này có gì hơi hám của T.T.Kh? Nếu MGL nghe, đọc được những lời giải thích này, mắc công lại mắng “đồ bịa đặt”!

7. T.T.Kh là Vân Nương?

+ Khẳng định:

- Thế Nhật T.T.KH – Nàng là ai?” (“T.T.KH nàng là ai?sđd): “T.T.KH tên khai sinh và thẻ căn cước là Trần Thị Chung (tên thường gọi là Trần Thị Vân Chung) sinh ngày 25 tháng 8 năm 1919 ở thị xã Thanh Hóa… Chồng là luật sư Lê Ngọc Chấn… Bà Lê Ngọc Chấn, nhũ danh Trần Thị Vân Chung (có thể gọi là T.T.KH hậu chiến) dưới bút danh Vân Nương là chính…”.

- TĐT: Ai có thể là T.TKh?” (“Giải mã nghi án văn học T.T.Kh”, sđd): “Trong số những người phụ nữ được giả định trước đây, chỉ có một ‘ứng viên’ duy nhất phù hợp với vị trí của T.T.Kh theo tiêu chí nói trên. Đó chính là bà Trần Thị Vân Chung…”.

+ Phủ định:

- NTK: “Huyền thoại, chỉ nên mãi mãi là huyền thoại(sđd): “từ đầu thập niên 50 trở về trước, Vân Nương chưa làm thơ. Do đấy, Vân Nương không phải là T.T.Kh.!” (sđd tr 207).

Muốn phải hay không phải không phải chỉ… cãi mà phải đối chiếu nhân thân, đối chiếu bằng thi ca của họ.

B. Hai cuốn sách của Thế Nhật và TĐT:

I. Đối chiếu về hình thức (số lượng trang viết thực và trang phụ lục bài viết khác):

1. “T.T.KH nàng là ai?” (Thế Nhật, Nxb VH-TT – 1994): Số trang 165. Cuốn thứ hai năm 2001 có số trang 151.

a. Bài viết chính của tác giả: Chiếm 77/165 tính từ trang 9 (Dẫn nhập, Một nghi án văn học, T.T.KH – Nàng là ai?, Thơ T.T.KH (hậu chiến) hay là Vân Nương qua Tơ Sương, Bức thư ngỏ thay lời kết) chưa được nửa cuốn sách. Trong cuốn năm 2001, Thế Nhật rinh “Thư ngỏ…” lên trang đầu.

b. Phần phụ lục: Phần còn lại 88/165 chiếm hơn một nửa.

- Phụ lục I đăng lại “Bài thơ đan áo” tức ĐACC (không biết cái tên bài thơ lấy từ nguồn nào mà khác nguồn của NTL trong VNTNTCTT? “Các anh, Màu máu Ti-Gôn” của bút hiệu Thâm Tâm, “Cô gái vườn Thanh” của NB và bài viết“Những cánh hoa tim” của Thanh Châu.

Cuốn năm 2001, lấy từ phụ lục 2 của cuốn sách năm 1994 chuyển lên (HT-HC, Hoàng Tiến, MGL, Thanh Châu, Thế Phong, Nguyễn Vỹ, thơ Vân Nương) làm phụ lục 1.

- Phụ lục II đăng lại những bài viết: “T.T.KH” trong TNVN của HT – HC, “T.T.KH – là ai?” của Hoàng Tiến, “Ghi chú thêm về Thâm Tâm và T.T.KH” của MGL, “Nói thêm về T.T.KH” của Thanh Châu, “Thâm Tâm và T.T.KH” - Thế Phong, “Thâm Tâm và sự thật về T.TKH” của Nguyễn Vỹ, “Thơ T.T.KH ở nước ngoài” của TC, “Sầu thu” của Vân Nương.

Phần phụ lục chiếm hơn một nửa cuốn sách. Cuốn sách năm 2001 bổ sung thêm: Thư từ của Thư Linh, Vân Nương, “Nhà văn Thanh Châu nói về T.T.Kh” của Đoàn Minh Tuấn, Thư Vân Chung gởi phản đối cuốn sách, Thư Thế Phong trả lời Vân Nương và Lời cuối sách của Thế Phong làm Phụ lục 2. Một hoán chuyển… không cần ghi chú thích… Cũng hay!

Đặc biệt, cuốn thứ hai này, Thế Nhật “xóa hẳn” trang “Tư liệu tham khảo” có trong cuốn 1. Không hiểu là ý gì? Viết sách không cần tư liệu tham khảo quả… thần thánh thật! Hèn chi, dạo này đi đâu cũng thấy ông A kiện tụng, phàn nàn ông B xào nấu tư liệu, “mượn đầu heo nấu cháo vịt“!

2. “Giải mã nghi án văn học T.T.Kh”, TĐT (Nxb VHSG – 2007: Số trang 179.

a. Bài viết chính của tác giả: 78/179 cũng tính từ trang 9 (Câu chuyện tình buồn bảy mươi năm xưa, T.T.Kh là Nàng hay Chàng? Ai là người yêu của T.T.Kh, Ai có thể là T.T.Kh? Vì sao bà Trần Thị Vân Chung không nhận mình là T.T.Kh?) cũng chưa được nửa cuốn sách.

b. Phụ lục: Chiếm 101/179 trang.

- Phụ lục I đăng lại truyện ngắn “Hoa ti gôn“, “Những cánh hoa tim” của Thanh Châu.

- Phụ lục II đăng lại bài viết “Thâm Tâm và sự thật về T.TKH” của Nguyễn Vỹ, “Thâm Tâm là T.T.Kh?” của Bùi Viết Tân, “T.T.Kh là ai” của Hoàng Tiến, “Thơ T.T.Kh – sự thật hay huyền thoại” của Hoài Anh, “Nói thêm về T.T.Kh” của Thanh Châu.

- Phụ lục III đăng lại hai lá thư của bà Trần Thị Vân Chung phản đối Thư Linh và cuốn sách Thế Nhật, lá thư trần trình của bà Thư Linh gởi bà Vân Chung, “T.T.Kh nàng là ai? Cuốn sách được viết ra từ một sự ngộ nhận” của Phan Đức.

- Phần tư liệu tham khảo ghi 4 cuốn của Hoài Việt, Thế Nhật, HT – HC và Nguyễn Vỹ. Trong đó không có tư liệu tham khảo từ TTTB “xuất bản 1937 – 1938 tại Hà Nội”.

3. Kết luận về hình thức:

Hai cuốn sách này được hình thành theo chung một kiểu: Có 2 phần (Bài viết và Phụ lục). Phần bài viết luôn ít hơn những bài tư liệu góp nhặt.

Trong đó không có tư liệu tham khảo từ TTTB “xuất bản 1937 – 1938 tại Hà Nội” như trong cuốn năm 1994, Thế Nhật đã ghi. Dẫu sao, đây cũng là một thái độ “thành thật”. Không khéo, người thế gian lại mắc công bỏ dấu hỏi: Đọc TTTB hồi nào? Thấy cái gì ở trỏng thì… bỏ bà!

II. Đối chiếu về nội dung:

1. Cùng một đối tượng bị… ép phải làm T.T.Kh là Trần Thị Vân Chung:

a. Đường đi tìm… người của Thế Nhật:

- Loại bỏ TT: Bản thân Thâm Tâm, dù chỉ có một bài thơ ‘Tống biệt hành’, cũng đã để lại một dấu ấn trong nền thi ca hiện đại Việt Nam… Đối với Thâm Tâm thế là đủ. Chẳng cần phải là Trần Thị Khánh hay Thâm Tâm – Khánh để có cái tên ghép T.T.KH” (sđd tr 34).

- Loại bỏ NB: Bằng cách cho Nguyễn Bính chỉ vì lãng mạn mà ngộ nhận T.T.Kh là người vườn Thanh trong “Cô gái vườn Thanh“: “Với ai, chứ với Nguyễn Bính, chúng ta có thể chấp nhận được, bởi con người vốn rất thi sĩ, vốn rất lãng mạn của ông”.

Vì đã tự định cho mình một nhân vật “người yêu T.T.Kh” khác nên Thế Nhật đã cho rằng Nguyễn Vỹ “đã nhầm lẫn với cái phố Sinh Từ – Hà Nội… nơi ở của cô nữ sinh Trần Thị Khánh mà Thâm Tâm (Tuấn Trình) thường hay qua đấy. Phố Sinh Từ có vườn Thanh Giám mọc rất nhiều hoa Antigone… Rồi tự đó, ông dựng đứng lên mối tình Thâm Tâm và T.T.KH, với bao tình tiết éo le, diễm lệ sặc mùi cải lương; bởi ông suy từ câu: Ở lại vườn Thanh có một mình của T.T.KH mà cứ nghĩ đấy là lời than của Trần Thị Khánh”. (sđd tr 38).

- Mang râu, đội mão cho Thanh Châu vào tuồng với vai người yêu của T.T.Kh: Bằng nhiều cách:

+ Ca ngợi Thanh Châu: “Riêng người đàn ông, tác giả Hoa Ti -gôn, nhân vật chính hay là nguồn cảm hứng cho bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn của T.T.KH vẫn như người đứng ngoài cuộc, khoanh tay nhìn thiên hạ chơi cái trò ‘đuổi bắt’ ấy. Phải có một trái tim cứng rắn, có một tấm lòng vị tha cởi mở và có một bản lĩnh phi thường, ông mới đứng ra ngoài cuộc chơi ấy không một lời thở than. Ông tiếp tục im lặng cho đến khi Bài thơ cuối cùng của T.T.KH xuất hiện trên Tiểu thuyết thứ bảy ngày 30 tháng 10 năm 1938″. (sđd tr 33).

Một lời ca tụng… “một trái tim cứng rắn, có một tấm lòng vị tha cởi mở và có một bản lĩnh phi thường” khá… Tào Tháo. Một lổ hổng chân không! Căn cứ vào bài viết của Thanh Châu, Thế Nhật vội vã nghĩ rằng Thanh Châu biết T.T.Kh là ai: “T.T.KH im lặng đã đành. Con người gây ra ‘cú sốc hoa ti-gôn ấy thì lại lặng lẽ viết tiếp một truyện ngắn nữa: Những cánh hoa tim đăng vào mùa thu năm 1939 (một năm sau xuất hiện Bài thơ cuối cùng của T.T.KH đăng trên Tiểu tiểu thuyết thứ bảy). Truyện ngắn này lấy từ nguồn cảm hứng từ bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn của nàng. Cũng như truyện ngắn trước, lần này ông lại lấy câu: Bảo rằng: Hoa dáng như tim vỡ làm đề từ cho truyện ngắn của mình cùng với câu của Khái Hưng trong Gánh hàng hoa” (sđd tr 39).

- Thế Nhật khẳng định: “Đến đây thì mọi việc đã rõ và cũng có thể khẳng định: Chỉ có ông Thanh Châu mới biết rất rõ T.T.KH là ai? Vì ai? mà có “Hai sắc hoa ti-gôn”. Ông biết mà vẫn im lặng? T.T.KH biết mà vẫn im lặng? Mặc cho người đời bày đặt, thêu dệt”. (tr 39).

Thế nhưng, người biết mà im lặng không nói biết còn hơn kẻ không biết mà tài lanh nói là cái gì cũng biết! Cái câu “Im lặng là vàng” lúc ấy sao mà đáng giá!

- Thế Nhật viết y thật: “Năm 1954, hòa bình trở lại trên đất Bắc, T.T.KH cùng gia đình di cư vào Nam… đằng đẵng mấy chục năm trời, họ mới lại gặp nhau. Đáng nhẽ cái nghi án văn học này chấm dứt từ năm 1976 trong ngôi nhà của cô em gái T.T.KH là Trần Thị Anh Minh… nếu hai người không giữ im lặng đến ngay nay, để nhiều người mất công kiếm tìm”. (tr 41). Không hiểu văn chương này nói cái gì!

- Thanh Châu… được Thế Nhật đưa lên sân khấu: “Nhà văn tự buộc mình đóng vai kịch sĩ có tài là Thanh Châu… ông thắt nút, rồi cởi, lại cởi cởi, thắt thắt… khiến màn kịch thơ T.T.KH càng mờ mịt như đêm ba mươi” (tr 40-41). Đọc bài viết của Thanh Châu, lòng dạ Thanh Châu trong như pha lê, khác với dạ Thế Nhật đục ngầu! Thanh Châu làm gì mà “thắt nút rồi mở nút”? Bản thân Thanh Châu cũng muốn biết T.T.Kh là ai đến phát điên! Văn là người. Đọc người mà không hiểu ý người chỉ có hai trường hợp: Một người dốt. Hai ta dốt!

- Tại sao Thế Nhật từ bỏ quan niệm TT là T.T.Kh như trong bài viết ký Thế Phong trước đây?

+ Thế Nhật nhận được một bức thư của bà Đ.T.L: Saigon, 1-7-1994

Thân gửi anh Th…

(…) ‘Anh đọc qua bài Hoa Tim, coi tôi viết vậy có đủ ý chưa? Tôi viết đêm thứ 5 đó, vì thấy ý anh muốn vậy nên viết cho anh vui lòng. Có điều, anh đừng cho ai rõ T.T.KH là ai hộ tôi, để tôi giữ lời hứa vi chị ấy”.

Đ.T.L.”

+ Thế Nhật vin vào đó để thay đổi quan điểm của mình: “Thế là rõ lắm rồi, bà đã vui lòng kể cho tôi nghe những bí ẩn đời T.T.KH. do chính T.T. KH. kể, trước khi xuất cảnh sang Pháp. Qua nhiều buổi, một lần tôi khuyên bà nên viết thành một bài thơ để cho đời biết được nghi án này trở thành hiện tượng văn học có thực. Bà đồng ý và viết bài thơ Hoa Tim – T.T. KH phương xa… hé mở cánh cửa, đủ để rọi sáng những mờ ảo về thân thế T.T.KH.” (sđd tr 43). Rất tiếc, thư này bị đẵng khúc. Thế Nhật “không tiện” đăng cho người thưởng thức thì thôi. Nhưng “Sen tàn, sen vẫn ngát hương. Chồn hôi tô phấn cũng phường chồn hôi!”. Đọc qua là biết loại chồn hay sen?

+ Bà Vân Nương (Trần Thị Vân Chung) bỗng trở thành… T.T.Kh: Qua bức thư của Thế Nhật gởi cho bà:

“Gửi chị Trần Thị Vân Chung và anh Thanh Châu,

Xin được gọi là chị như ngày nào chị đã ký dưới các bài thơ của mình là T.T.KH. Bởi những năm ấy chị vừa 17,18 tuổi… tác giả của ba bài thơ nổi tiếng: Hai sắc hoa ti-gôn, Bài thơ thứ nhất, Bài thơ cuối cùng, thay vì gọi bà như một lẽ thường tình trong cách xưng hô của người đời. (cuốn 2001, Thế Nhật đổi “người đời” thành “đời thường“)

Xin chị hãy rộng lượng tha thứ (cuốn 2 bỏ từ “rộng lượng“) cho chúng tôi đã khơi dậy câu chuyện tình buồn cách đây hơn nửa thế kỷ mà trong thâm tâm chị không bao giờ muốn nhắc tới. (cuốn 2 thêm từ “còn“> “còn muốn“)

Ngày ở Sài Gòn, chị vẫn mai danh ẩn tích. Cái tên T.T.KH chỉ xuất hiện với Bài thơ cuối cùng ngày 30 tháng 10-1938. Tôi biết chị vẫn làm thơ viết văn, với nhiều bút hiệu khác nhau cùng với các bạn cùng giới lập nên nhóm Quỳnh Giao… (cuốn 2 cắt “tôi” thêm “vẫn” > “Vẫn biết chị”…)

Bây giờ chị ở tận miền Nam nước Pháp xa xôi, nhưng có một điều may mắn là tôi vừa được xem bức thư chị gửi về cho một người bạn. Ngoài bức thư, tấm hình mới chụp nhà thờ ở Notre Dame de Paris còn cả một bài thơ mới nữa. (cuốn 2 sửa lại: “Bây giờ chị ở tận Sarlat, nhưng có điều may mắn vừa được xem bức thư chị gửi về cho bà Như Hiên. Ngoài thư, tấm hình mới chụp ở nhà thờ Notre Dame de Paris, chị còn kèm cả bài thơ mới nữa”).

Và cũng trước đó, trong một ngày mưa – người bạn gái của chị – bà Đ.T.L đã hé lộ cho nghe về cuộc đời của chị – của T.T.KH trong một buổi bàn chuyện văn chương đơn thuần. Sau đó bà Đ.T.L. có viết bài HOA TIM – T.T.KH PHƯƠNG XA. Bài thơ gần như viết lại cuộc đời và cuộc tình định mệnh của chị. Chúng tôi phải cám ơn bà Đ.T.L nhiều, bởi vì không có bà thì sẽ không có cuốn sách này. Tuy là trái với lời bà Đ.T.L. căn dặn: Chuyện này bà vì chị mà giữ kín như chúng tôi viết trong phần T.T.KH – NÀNG LÀ AI? (cuốn 1, Thế Nhật chỉ ghi Đ.T.L, cuốn 2, Thế Nhật ghi: Đặng Thị Lạc. NTK ghi: “Đỗ Thị Lạc. Họ nào chính xác?)

Giá như… người bạn trong nhóm Quỳnh Dao ngày trước vừa nhận được thư chị, cho phép chúng tôi được in tấm hình mới nhất chị vừa chụp cũng như bút tích bài thơ chị viết thì tư liệu cuốn sách còn thú vị xác đáng hơn nhiều! (cuốn 2 ghi “Giá như bà Thư Hiên trong nhóm Quỳnh Dao, cho phép được được in tấm hình mới nhất vừa chụp cùng bút tích bài thơ chị; thì tư liệu cuốn sách còn thú vị hơn nhiều!”).

Nhưng cũng đừng trách bà ấy, vì bà ấy cũng đang viết một cuốn sách gồm nhiều tác giả là phụ nữ viết văn, làm thơ trong đó có chị – có T.T.KH. Bà giữ lại làm tư liệu riêng cho mình là quá đúng. Chúng tôi nào nỡ trách! (cuốn 2: “Nhưng cũng đừng trách, vì bà cũng đang viết một cuốn sách gồm nhiều tác giả là phụ nữ viết văn, làm thơ trong đó có T.T.KH. Bà giữ lại làm tư liệu văn học riêng cho mình cũng phải lẽ“)

Chỉ tiếc bạn đọc đã không gặp chị bằng xương bằng thịt ở ngoài đời mà cho đến tận bây giờ họ không nguôi nhớ chị, không nguôi nhớ sắc hoa ti-gôn; không nguôi lòng trắc ẩn; chia xẻ cảm thông với chị.

… Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng

Trời ơi! Người ấy có buồn không?…

Đấy không phải là lời than riêng nữa, mà của rất nhiều người con gái đã có một tiền duyên định mệnh như chị.

Ở đây, chúng tôi cũng có lời tạ lỗi với ông nhà: – Ông Lê Ngọc Chấn (dầu đã qua đời) và các con của chị, vì những điều ‘thóc mách’ chúng tôi viết trong cuốn sách này. (cuốn 2: “lời tạ lỗi với ông nhà: – Luật sư Lê Ngọc Chấn (đã qua đời)… Tiếp đến, chúng tôi tạ lỗi với các nhà văn có bài được trích dẫn trong sách, vì chưa kịp xin phép trước).

Cuối cùng xin anh Thanh Châu – nhà văn – tác giả Hoa ti-gôn và Những cánh hoa tim, hiện đang ở Hà Nội, người mà theo chúng tôi gọi là nhân vật chính trong cuộc tình thơ này. (cuốn 2: “Cuối hết, xin nhà văn Thanh Châu thông cảm. Là tác giả Hoa ti -gôn Những cánh hoa tim, hiện đang ở Hà Nội, người mà theo chúng tôi cho: một, trong hai nhân vật chính trong cuộc-tình-thơ này“).

Nếu bây giờ không công bố cái nghi án văn học trên 50 năm qua, chúng tôi cảm thấy mình có lỗi với bạn đọc, bởi vì chúng tôi đã lỡ biết T.T.KH – Nàng là ai rồi. (cuốn 2: “Nếu bây giờ không công bố nghi án văn học trên 50 năm qua, chúng tôi có lỗi – bởi đã lỡ biết T.T.KH – Nàng là Ai! Đành vậy, xin cúi đầu mong được sự rộng lượng tha thứ của tất cả qúi vị.”.

Tp. Hồ Chí Minh 1994

THẾ NHẬT”

(Cuốn 2: TP. HCM, tháng 7 năm 1994 ).

Hai cuốn sách cùng nội dung, một bức thư đổi nhiều chỗ khác nhau? Đọc ra, chúng ta thấy tâm ý hay gì của Thế Nhật? Tâm sáng. Lòng lương thiện. Mục đích vô tư. Làm sao đêm thấy ác mộng? Ngày thấy bão going? Làm điều thiện? Không cần câu xin lỗi. Đã xin lỗi thì phải thành tâm. Thế Nhật có thể lấy những từ đã thêm, hay bớt trong lá thư thứ nhất để vào trong lá thư thứ hai đăng trong cuốn 2 mới đúng tác phong người nghiên cứu văn học.

- Phản ứng của… T.T.KH – ?! Trần Thị Vân Chung: Bà viết hai bức thư liền phản ứng kịch liệt… (hai bức thư này được Thế Nhật đăng trong sách mình và TĐT đăng trong cuốn “Giải mã nghi án văn học T.T.Kh, sđd 159 – 163 và 164-174). Trong cuốn này, có kèm bản sao từ sách Thế Nhật.

- Phản ứng của độc giả:

+ NTK:“Thái độ côn đồ trong văn nghệ” (sđd tr 90-91): “ Thế Phong – Trần Nhật Thu giữa thập niên 90 khi lăng xê một cuốn sách nhan đề T.T.KH., Nàng là ai? để vu khống và lừa gạt độc giả. Hệt những kẻ múa gậy vườn hoang, coi thường hết cả thảy các đấng cha, chú và toàn thể bạn đọc… Có một cuốn sách in ronéo, bìa đề tên tác giả Thế Phong do Đại Nam Văn Hiến xuất bản và phát hành, chúng tôi đọc trong năm 1956, cảm nhận ngay ‘tầm vóc’ người viết…Văn phong của Thế Phong cũng rập khuôn nhà phê bình Thượng Sĩ… cũng thiếu cả sự hòa nhã khi phê phán văn chương và tư tưởng người khác… Nhà thơ Sa Giang Trần Tuấn Kiệt biên soạn cuốn Thi ca Việt Nam hiện đại… vẫn còn là một hiện tượng Thế Phong chẳng bao giờ thay đổi: Thế Phong và một văn công Hà-Nội tên Trần Nhật Thu vừa cho xuất bản cuốn T.T.KH. Nàng là ai? Năm 1994, với mục đích bôi lọ người khác khiến chúng tôi không thể không lên tiếng”.

+ Phan Đức: “T.T.Kh nàng là ai? Cuốn sách được viết rà từ sự ngộ nhận?”

“Cảm tưởng đầu tiên của tôi khi đọc cuốn sách T.T.Kh nàng là ai? cuả Thế Nhật… là: cuốn sách chưa kết thúc được một nghi án văn học… thì lại tạo ra một nghi án mới: Tác giả Hoa ti gôn có phải là người tình của T.T.Kh?Và nữ sĩ Vân Nương có phải là T.T.Kh hay không?… Tôi chỉ nói một điều: Người viết quá ẩu. Trong bài viết, tác giả đã công bố một bức ảnh (ở trang 4) và chú thích: “Bà T.T.Kh và người bạn chụp trong vườn cam tại Mỹ Tho năm 1984 – Bà T.T.Kh cầm trái cam”. Sự thật người cầm trái cam là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương… “.

Phan Đức đưa ra những người trong gia đình bà Vân Nương nhận xét: “sách viết thiếu đứng đắn và sai quá nhiều…” (phần sai 9 điều, trong bức thư phản đối, bà Vân Chung đã nói rõ). Phan Đức nhận định: “Tôi cho rằng ngay từ đầu, bà Thư Linh đã ngộ nhận từ sự ‘không phủ định’ của bà Vân Nương, để rồi cứ trượt dài trên con đường ngộ nhận. Và tác giả Thế Nhật đã căn cứ vào một ‘tài liệu giả tưởng’ để viết nên cuốn sách… Nếu bà Thư Linh kể đúng sự thật và Thế Nhật viết đúng sự thật, thì hà cớ gì bà Vân Chung lại ‘phản ứng gay gắt’, nhất là đối với bà Thư Linh, một người ‘quen biết lâu đời’?”. (Giải mã nghi án văn học T.T.Kh sđd, tr 176-179). Tư liệu trên, TĐT không ghi nguồn trong sách mình nhưng Thế Nhật có ghi: Phan Đức in trong “Tuần báo Thanh Niên, số 119 (559) ra ngày 11-10/94, phát hành ở TP.HCM”.

+ NTK Nguyên nhân nào sống dậy huyền thoại T.T.KH.? (sđd tr 144-145): “2. Thế Nhật chỉ căn cứ vào những bài thơ đã đăng báo liên hệ tới chuyện nàng T.T.Kh. như bài Cô gái vườn Thanh (sau in trong Lỡ bước sang ngang đổi lại là dòng dư lệ) của Nguyễn Bính, mấy bài thơ ký tên T.T.Kh., và một số bài linh tinh khác như Mầu máu Ty-gôn, Các anh hãy uống cho say, v.v… và điều quan trọng nhất là mới đây bài Hoa tim, gửi chị phương xa của Thư Linh Đỗ Thị Lạc cộng với mấy dòng Thư Linh viết để áp đặt Ai là tác giả mấy bài thơ Hai sắc hoa Ty-gôn thuở xưa.

Đọc thơ và hiểu thơ như Thế Nhật có lẽ chỉ có Thế Phong và Trần Nhật Thu thôi. Bởi lẽ, các ông ấy không thưởng thức Thơ bằng tâm hồn, trái tim người nghệ sĩ mà chỉ nhận chân được một điều là tất cả những diễn tả trong thơ hẳn phải là sự thật đời thường của nhân vật nên căn cứ vào vai trò bỉ ổi của Thư Linh Đỗ Thị Lạc để áp đặt cho Vân Nương chính là Nàng Thơ T.T.Kh. thời tiền chiến.

Ở đây, chúng tôi không có ý kiến về thơ của Thư Linh Đỗ Thị Lạc với bài Hoa tim mà Thế Nhật coi là chủ đề ‘chìa khóa của một bí mật’ tìm ra chính tác giả những bài thơ Hai sắc hoa Ty-gôn: nữ sĩ Vân Nương!

Chúng tôi khẳng định, nữ sĩ Vân Nương vốn rất tế nhị, kín đáo không bao giờ tỏ lộ những gì phù phiếm cho bất cứ ai. Huống hồ là một Thư Linh Đỗ Thị Lạc không phải là người trong Hội Thơ Quỳnh Dao với nữ sĩ. Thư Linh Đỗ Thị Lạc đến với Vân Nương và Hội Thơ Quỳnh Dao sau 30.4.1975 với một dụng ý. Tốt hay xấu chỉ khi nào chuyện xảy ra, mọi người mới có thể đánh giá? Họa sĩ Vũ Hối và nhạc sĩ Đức Quỳnh phải ngồi tù cũng do dụng ý xấu của một vài anh chị em trong giới văn nghệ vào những năm 1987-1990 là một thí dụ…

3.Thế Phong viết vốn văng mạng, trịch thượng và hỗn xược từ xưa, lại coi trời bằng vung và dao to búa lớn với Vân Nương và MộtngTuyết khi bị Vân Nương phản ứng chỉ cho những điểm sai lầm. Bạn đọc xem đến đoạn “Thế Phong” trả lời là rõ tư cách Thế Phong và Trần Nhật Thu vậy”.

Chính là bài “Trả lời 9 điểm của bà Vân Nương: ‘Tôi không phải là T.T.KH’” của Thế Nhật trong cuốn 2. Trước khi nhận đúng sai, Thế Nhật đã nêu “thành tích” cuốn sách mình: “đến nay có khoảng 70 bài nói về, tán đồng có, phản bác có, nhiều nhất là phản bác, thực ra mà nói, chưa có một cuốn sách nào được nhắc tới nhiều như vậy. Bởi ý nguyện riêng của người viết, không phải là đặt hàng…” (sđd tr 124). Ý nguyện riêng hay chung, công hay tư chưa thấu lý nhưng lá thư của Đặng – Đỗ Thị Lạc còn rành rành: “thấy ý anh muốn vậy nên viết cho anh vui lòng…” thì còn gì mà ý nguyện công chánh!

Thế Nhật có điểm qua những bài phản bác trên các báo “Market Sunday Issue”, Thanh Niên, Sài Gòn Nay, Người Việt, Sài Gòn Giải Phóng với Thúy Nga, Trần Phá Nhạc (tên nghe rợn như tàu… phá băng!), Phan Đức, cô cháu gái của Vân Chung… không đồng tình với cuốn sách: “không được mạch lạc và khoa học cho lắm, là ngộ nhận, sách viết sai lạc, thiếu đúng đắn, sai quá nhiều…”. :

Những người khen sách mình như Ngọc Tình, Lý Văn Sâm, Mai Quốc Liên: “đây là cuốn sách có ích và đáng yêu” còn nói tới khả năng “trả tác quyền cho bà Trần Thị Vân Chung” mới nực cười. Tác quyền mình, mình tự nhận lấy chứ, ai đi “ép” con quạ đội lớp con công! Than rằng: Giới trí thức có tuổi của đất nước Việt Nam càng ngày càng ngóng nhiều hơn nghe, có nghe thì nghe một tai. Có nhìn, chỉ nhìn một mắt. Có sờ thì sờ đuôi voi!

Cũng như Trần Ngọc Giàu, bao nhiêu nhà đại sử gia trước xem Nguyễn Văn Tường là phản, sau vài ba hội thảo gọi là khoa học, tư liệu chẳng gốc, lý giải không nguồn lại nhận là Trung! “Đại Nam Thực Lực chính biên” ghi chép rành rành, chẳng ai đọc cho kỹ lưỡng! Tiên – Rồng nòi giống cha ông/ Nửa phần là rắn chứ Rồng thế đâu!

Thế Nhật lý giải vì sao cô cháu gái Vân Nương phản đối bác trai mình “mê gái”: Vì cô cháu kia sinh năm 1954 nên nhỏ không biết chuyện người lớn. Người cung cấp tin chồng Vân Chung “mê cô thư ký” là… luật sư Trần Thanh Hiệp chứ không phải Vân Chung. Dẫu là có sự thật (vì “35, 71″ là máu của quý ông, máu “HT” – Hoạn Thư, mới là máu quý bà!), Thế Nhật cũng không nên “khai mương nước chảy, bùn trôi” như vậy trong một cuốn sách mà Thế Nhật cho là “không phải đặt hàng“. Điều đó, mang tư tưởng hết sức tầm thường trong nhân vật T.T.Kh – Vân Chung: Bà đi gặp “người khách trung niên” tình xưa cũng vì chồng bà ngày nọ “đớp chả” thì nay bà “xơi nem” thì cũng chẳng lỗi phải gì! Muốn truyện mình viết về T.T.Kh gặp người yêu là ai cũng được, tác giả phải nhập vào nội tâm nhân vật với những mối quan hệ xưa, nay níu kéo và trái tim phải thật như trái tim người tình trong HSHTG chứ không phải trong BTTN, BTCC… Thế Nhật chưa tới điểm cực này. Ông đem lời Hỷ Khương (chẳng biết nguồn đâu): “đã hơn một lần gọi điện thoại cho Thư Linh: ‘chị chỉ cần trả lời đó là ngộ nhận, hẳn sẽ êm xuối tất cả’ có nghĩa T.T.KH muốn cho Thư Linh phải tự dối mình, để tội này đổ lên đầu hai anh chàng tác nghiệt của cuốn sách mà không là tác giả?”. Thư Linh có dối hay không, ngộ nhận hay không, qua lời lẽ trong thư của bà và Vân Chung, ai có “thiện cảm” và nghĩ rằng bà Thư Linh là người bạn tốt?

Các phần thư còn lại, Thế Nhật nhận mình sai hết nhưng cũng “vẽ lòng vòng” bào chữa cho cái sai của mình. Người xưa cho đó là “nguỵ biện”!

Với Thế Nhật, một cuốn sách viết về nhân thân tác giả mà sai hết trọi, thử hỏi có giá trị văn học nào mà Mai Quốc Liên, Lý Văn Sâm… vuốt râu “tấm tắt ngợi khen tài” nhưng hỡi ơi, “hoa tay thảo… sai bét, còn trợn mét (mắt) với ai?!”!

Thế nhưng, văn nghiệp khổ thân. Các nhà văn, nhà báo ta cũng được Thế Nhật… tế sống: “Các báo có bài phản bác hẳn không dễ bỏ qua những chi tiết như vậy, khai thác bán báo chạy hơn; như chính một Tổng biên tập một tờ tuần báo đăng nhiều bài về T.T.KH nói với T.N.T: ‘Mày phải cho tao nói về T.T.KH chứ, cả nước đang ăn theo T.T.KH, thời điểm này nếu không khai thác, báo ế’. Ngay như nguyệt san Văn hóa, khi trích đăng loạt bài này, theo sự tiết lộ của người có thẩm quyền là Lâm Quốc Trung, trong LTS, từng viết:… ‘Nếu như cuốn sách không đưa ra những phát hiện có thể xem là mới mẻ so với những lần ồn ào trước đây thì NSVH đã không để bạn đọc mất phí thời giờ theo dõi 3 kỳ báo…’”. (sđd).

Bán tin, phao tin, “nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm” là cái nghề “moi tiền” quần chúng dễ nhất. Điều này khiến chúng ta nghĩ thử xem hiện tượng T.T.Kh xuất hiện trên TTTB báo bán chạy như tôm tươi mà Vũ Đình Long làm sao có thể không “vồ” lấy để cho đàn em hành động. Nếu Vũ Đình Long không “bật đèn xanh” thì những người trong TTTB phải nhanh tay mà “chụp lấy” kẻo “Ngày nay”, “Phong Hóa”, “Hà Nội Báo”… giành hết thì… lỉnh nhợ! Cũng “ngón làm ăn” PMU 18 bị bể ổ mà vụ xử hai nhà báo Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Việt Chiến đã kéo theo theo không biết bao nhiêu quan với quân “lên voi, xuống ngựa“! Sai hay đúng, trật hay ngay, cũng là một cách của báo chí và sách vở Việt Nam hiện nay phải có chiêu này để “sinh tồn”! “Trời hỡi Làm sao khi khát đói. Gió trăng có sẵn làm sao ăn?”. Không phải thi nhân xưa của ta từng ngửa mặt than dài hay sao! Ngón làm ăn của Vũ Bằng chuyên “bịa chuyện” mà MGL từng mắng mỏ ra trò. Giới văn sĩ, hiền sĩ, hàn sĩ… hèn sĩ hiện nay cứ thích tác phẩm mình bị “đánh”, “đánh dập đầu bể trán” thì mình mới… nổi! Một quan niệm… “khổ nhục kế” Mao Toại bị biến dạng đáng buồn!

Một điều khiến cho người đọc thấy “mất thiện cảm” với Thế Nhật là hình như ông đã “thách” bà Vân Chung khi bà đòi kiện ông. Ông nêu ra lý do là bà Vân Chung không thể nào kiện được vì: Bà Vân Chung có nhờ cặp vợ chồng Thanh Vân và Như Hiên nhưng “ông Thanh Vân khước từ. Bởi một lẽ giản dị, ông là bạn thân với tôi và Trần Nhật Thu”. Bà Vân Chung đã “chọn mặt gởi vàng” lầm người. Nhưng nếu bà tin Thanh Vân và Như Hiên (gia đình em, cháu bà còn bên VN sao bà “ruột bỏ ra, da bỏ vào” mà không nhờ họ?) thì đôi vợ chồng này có lẽ “có tem” đối với bà. Nhưng trong thời giờ phút chọn một chọi một, hai vợ chồng này đã chọn Thế Nhật. Không hẳn vì là “bạn thân” với Thế Nhật như Thế Nhật tự hào mà vì người ta muốn “yên cái thân”. Người đi đường có thấy kẻ cướp chầm dầm ra đó mà cũng không dám la. Đó là cái muốn yên thân đến mức “hèn đại nhân” trong con người ta sống dậy. Không ai bênh vực cho ai cả. “Người với nhau là chó sói” cũng tới phiên!

Thứ hai, muốn kiện thì “đương sự phải nhờ một luật sư. Bà hiện ở Pháp, có thể luật sư sẽ từ Pháp qua đây để cãi ở tòa. Nếu (tôi nhắc lại chữ nếu hai lần) thắng kiện, bên bị là chúng tôi phải chịu bồi hoàn án phí, bồi thường một đồng danh dự. Nhưng trước hết phải sẵn hiện kim để làm việc này. Và tôi cũng xin cảm ơn trước, nhân danh nhà xuất bản, cuốn sách sớm tái bản hơn bao giờ!”. Trời ơi! Thật không tin, một nhà nghiên cứu văn học mà có thể “đao to búa lớn” với một bà già 77 tuổi tại thời điểm 1994, và 84 tuổi tại thời điểm 2001 như Vân Chung! Bà làm sao có thể “bôn ba không qua thời vận“đa kim ngân phá luật lệ” này được? Tất nhiên, bà có thể mướn luật sư VN và ký giấy “uỷ quyền” để kiện Thế Nhật. Luật nước ngoài đâu đó rõ ràng mà còn “xảy” huống hồ luật VN? Với luật VN, bà Vân Nương chào thua là cái chắc. Bà có kiện như “cái kiến mày kiện củ khoai” . Không những “mất cả chì lẫn chài” mà làm cho cuốn sách Thế Nhật sớm “tái bản”! Nhưng:

Chạy đâu cho thoát lưới trời

Quả nào, cây ấy là lời nhắc sau!

Tình người, ta bỏ ở đâu

Lương tâm cắn rứt là câu nhớ đời!

Sai đúng thế nào, chúng ta “hạ hồi phân giải”!

- TĐT: “Năm 1994, khi cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? ra đời, nêu đích danh tên tuổi bà Vân Chung, thì chính bà Vân Chung đã công khai lên tiếng phủ nhận mình là T.T.Kh. Thư của bà từ Pháp gửi về được đăng tải trên Thanh Niên và một số tờ báo khác. Ngoài ra có một số độc giả cũng viết bài gửi đến báo, không tin bà Vân Chung chính là T.T.Kh. Điều này đã làm nhiều người ngờ vực tính chân thực của cuốn sách nói trên. Bởi vì cuốn sách được viết ra dựa trên sự tiết lộ vô tình của một người khác là bà Thư Linh, người quen biết với bà Vân Chung sau năm 1975 chứ tác giả không có thông tin trực tiếp” (sđd).

TĐT quả “ăn cháo đá… nồi”. Thế Nhật với cuốn sách “T.T.Kh nàng là ai?” đã cung cấp thông tin Trần Thị Vân Chung là T.T.Kh và Thanh Châu là người yêu của Vân Chung nên TĐT mới có thể có cuốn “Giải mã nghi án văn học T.T.Kh”. Vậy mà T ĐT không biết “ăn qủa nhớ kẻ trồng cây” gì ráo trọi!

b. Đường đi tìm… người của TĐT:

- Theo chủ quan: “T.T.Kh Nàng hay Chàng” (sđd tr 35): “Một điều rất rõ là, khi đọc các bài thơ của T.T.Kh, người ta có cảm giác ngay lập tức tác giả phải là một người phụ nữ…. Thật ra, nhiều câu thơ của T.T.Kh thể hiện rất rõ tính nữ trong đó. Đọc kỹ những câu thơ của T.T.Kh, có những câu dường như chỉ là tác giả nữ thì mới viết như thế: ‘Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/Trời ơi người ấy có buồn không’ (Hai sắc hoa ti gôn). Chúng ta phải thừa nhận điều này, đàn ông và phụ nữ có cách nói, cách nghĩ khác nhau. Có những điều, đàn ông nghĩ thế này nhưng phụ nữ sẽ nghĩ thế khác. Chẳng hạn người đàn ông thường lo người mình yêu bị khổ còn phụ nữ sẽ lo người mình yêu bị buồn. Cho nên là phụ nữ thì T.T.Kh mới viết câu: “Trời ơi người ấy có buồn không’. Ta tin rằng Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính sẽ không bao giờ viết câu này nếu họ là tác giả của bài thơ. Trong ba bài thơ có khá nhiều câu thể hiện cách nghĩ cách nói của người phụ nữ mà đàn ông không thể nghĩ và nói: “Từ đấy, thu rồi, thu, lại thu/Lòng tôi còn giá đến bao giờ?/Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ…/Người ấy cho nên vẫn hững hờ”. Đây là những cảm nhận hết sức tinh tế của một người phụ nữ, hơn nữa là người phụ nữ đã có chồng. Đàn ông không thể làm được những câu thơ này.

Chúng tôi muốn nói với bạn đọc điều này: thơ là tiếng nói của tâm hồn, là sự thể hiện ra bằng ngôn ngữ những tâm tư tình cảm của con người. Nếu là một người hóa thân thành người khác để làm thơ thì rất khó, ngoại trừ đấy là thể loại truyện thơ. Đọc những vần thơ của T.T.Kh, ta thấy tràn ngập trong đó những nỗi niềm tâm sự, những xót xa ngậm ngùi, những buồn thương uất hận: “Tôi oán hờn anh mỗi phút giây/Tôi run sợ viết bởi rồi đây/Nếu không yên được thì tôi chết/Đêm hỡi, làm sao tối thế này” (Bài thơ cuối cùng), “Là giết đời nhau đấy phải không/Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung/Giận anh em viết dòng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối cùng” (Bài thơ cuối cùng), “Đâu biết lần đi một lỡ làng/Dưới trời gian khổ chết yêu đương/Người xa xăm quá tôi buồn lắm/Trong một ngày vui pháo nhuộm đường” (Hai sắc hoa ti gôn)…

Với những câu thơ này, làm sao có thể tin rằng do một người khác phái “đóng vai” để tạo ra? Làm sao từ một câu chuyện tình phụ tầm thường nhạt nhẽo giữa Thâm Tâm với một cô gái mang tên Trần Thị Khánh nào đó mà thi sĩ viết nên được những câu thơ đớn đau thế này? Thật là ngây thơ khi chúng ta tin rằng Thâm Tâm hay Nguyễn Bính có thể là tác giả của những bài thơ mang tên T.T.Kh. T.T.Kh dứt khoát phải là một tác giả nữ.
…T.T.Kh đã sáng tác nên những bài thơ tình bất hủ vì chuyện ngang trái tình duyên. Điều này thì đã quá rõ. Nhưng ta cần biết ai là người đã làm cho thi sĩ đớn đau đến tột cùng khiến phải thốt ra những lời thơ thấm đẫm đầy nước mắt ấy? Đây là một câu hỏi quan trọng. Giải đáp được câu hỏi này là ta có trong tay chiếc chìa khóa để có thể mở cánh cửa đi sâu vào những ngóc ngách bí ẩn bên trong câu chuyện kỳ lạ này.
-
Cũng loại bỏ TT và NB: Thâm Tâm và Nguyễn Bính rõ ràng là những nhà thơ thuộc tầng lớp ‘cựu’ trong khi đó T.T.Kh lại rất ‘tân’”(sđd tr 51).

“Quá trình lần theo dấu vết con người bí ẩn này, chúng ta đã đưa ra được một số tiêu chí để xác định ai có thể là T.T.Kh. Thứ nhất, T.T.Kh phải là một người phụ nữ. Thứ hai, T.T.Kh phải là người thân thiết với nhà văn Thanh Châu. Cụ thể hơn, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu. Như vậy, ta phải loại bỏ tất cả các “ứng viên” là nam giới như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, J.Leiba… cùng một số “ứng viên” nữ như Trần Thị Khánh…” (thanhnien.com)
- Cũng khẳng định T.T.Kh chính là… Trần Thị Vân Chúng – Vân Nương như sách Thế Nhật:

+ Tiêu chí: “Vậy còn lại ai sẽ là người phù hợp với T.T.Kh? Đến đây, có lẽ ta cần cho nhân vật thật xuất hiện để đối chiếu. Trong số những người phụ nữ được giả định trước đây, chỉ có một “ứng viên” duy nhất phù hợp với vị trí của T.T.Kh theo tiêu chí nói trên. Đó chính là bà Trần Thị Vân Chung, người được tác giả Thế Nhật phát hiện ra và tiết lộ trong cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? Đây là nhân vật đã gây ra nhiều tranh cãi trên công luận vào năm 1994” (web và sđd).
+ Cảm nhận của TĐT: “Riêng chúng tôi, khi xem xét lại tất cả các vấn đề, thật đáng ngạc nhiên là chúng tôi thấy bà Vân Chung có một nhân thân phù hợp với T.T.Kh đến kỳ lạ.
Trước hết, bà Vân Chung chính là người yêu của nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn. Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận – một điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc. Đây là một điều tối quan trọng, đáp ứng tiêu chí cần phải có của T.T.Kh (xin nhấn mạnh lại một lần nữa, bất cứ nhân vật nào, muốn là “ứng viên” để vào vị trí T.T.Kh thì theo quan điểm của chúng tôi, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu).
Nhà văn Thanh Châu cùng sinh trưởng ở thị xã Thanh Hóa như bà Vân Chung, gia đình thuộc dòng dõi quan lại nhưng đến thời của ông thì gia cảnh sa sút. Ngược lại, gia đình bà Vân Chung lúc đó làm kinh doanh buôn bán, kinh tế khá giả hơn rất nhiều.
Thanh Châu là bạn của người anh ruột bà Vân Chung. Ông có dịp trò chuyện với cô em của người bạn mình là bà Vân Chung khi đi trên chuyến tàu từ Hà Nội về Thanh Hóa. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu cho một cuộc tình đầy nước mắt về sau.
Mối tình giữa Thanh Châu và Vân Chung là một mối tình văn chương cao đẹp vì cả hai người đều có tâm hồn văn nghệ sĩ. Truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu thể hiện đầy chất lãng mạn và những bài thơ của Vân Chung viết sau này cũng thật lãng mạn mà chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc trong kỳ tới để tiện so sánh với thơ T.T.Kh.
Sau khi chia tay, hai người không có điều kiện gặp lại nhau nữa vì đến năm 1954, hai miền Nam Bắc chia đôi, Vân Chung đã cùng chồng vào Nam còn Thanh Châu ở lại quê nhà. Mãi cho đến bốn mươi năm sau, khi miền Nam giải phóng, Thanh Châu mới tìm vào Sài Gòn để thăm lại cố nhân.
Nhà văn Thanh Châu đã trực tiếp xác nhận chừng đó thông tin với chúng tôi. Nhưng ông không đồng ý khi chúng tôi đặt vấn đề rằng T.T.Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung. Vì vậy, chúng ta hãy tiếp tục so sánh đối chiếu”.
(web và sđd).

NB hay TT có làm được những bài thơ ký T.T.Kh hay không, chúng ta cũng rõ rồi. Cuộc tình được dựng lên có hợp thời gian, tuổi tác, thời điểm hay không, những bài thơ của Vân Chung có “lãng mạn” hay không từ từ sẽ phơi ra ánh sáng.
2. Cùng việc hai tác giả hai cuốn sách đều cho Thanh Châu là người yêu của T.T.Kh (tức Vân Nương – Trần Thị Vân Chung):

a. “T.T.KH. Nàng là ai?”:

- Thế Nhật: “Chỉ có ông Thanh Châu mới biết rất rõ T.T.KH là ai? Vì ai? mà có Hai sắc hoa Ti-gôn. Ông biết mà vẫn im lặng?… Thanh Châu không nỡ giấu diếm về T.T.KH,… Thanh Châu cực lực bác bỏ huyền thoại Thâm Tâm, Nguyễn Bính… những văn thi sĩ giây máu ăn phần với T.T.KH là không có thực, là hoàn toàn sai. Chỉ có một điều quan trọng duy nhất mà bạn đọc muốn biết, vậy nếu không là Thâm Tâm, Nguyễn Bính… hay là ai đi nữa… có một ai đích thực cho ai mà có thơ T.T.KH thì ông lại không nói ra. Theo tôi, đương sự không thể nói ra – dẫu đương sự rất muốn công bố, nên dường như chúng tôi đã trở thành cái gạch nối để nói rõ ra điều bí ẩn đó – mà cả T.T.KH và Thanh Châu đều không thể nói ra” (sđd tr 45-46).

b. “Giải mã nghi án văn học T.T.Kh”:

- TĐT: “Trước hết, bà Vân Chung chính là người yêu của nhà văn Thanh Châu. Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận – một điều trước đây chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc”.

- Đối chiếu của TĐT:Nhà văn Thanh Châu cùng sinh trưởng ở thị xã Thanh Hóa như bà Vân Nương…Thanh Châu là bạn của người anh ruột bà Vân Chung. Ông có dịp trò chuyện với cô em của người bạn mình là bà Vân Chung khi đi trên chuyến tàu từ Hà Nội về Thanh Hóa. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu cho một cuộc tình đầy nước mắt về sau. Trở về Thanh Hóa, hai người tiếp tục qua lại với nhau và tình cảm càng ngày càng thắm thiết. Gia đình hai bên cũng đều biết việc này.Nhưng cuộc tình duyên không đi đến đoạn kết vì vấn đề môn đăng hộ đối. Sau cú sốc này, Thanh Châu ra Hà Nội sống, Vân Chung ở lại quê nhà. Một thời gian sau thì lấy chồng. Chi tiết nói trên là phù hợp với câu thơ trong Bài thơ thứ nhất:

Ở lại vườn Thanh có một mình… Ra Hà Nội một thời gian, Thanh Châu nhận được tin tức từ gia đình nhắc ra cho biết bà Vân Nương chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng. Câu thơ tiếp theo của T.T.Kh viết đúng như hoàn cảnh của bà Vân Chung:

Và một ngày kia tôi phải yêu

Cả chồng tôi nữa lúc đi theo…

Từ đó Thanh Châu không bao giờ còn gặp lại người yêu xưa nữa cho đến bốn mươi năm sau, khi miền Nam giải phóng, ông tìm vào Sài Gòn để thăm lại cố nhân. Nhà văn Thanh Châu xác nhận thông tin chừng đó với chúng tôi. Nhưng ông không đồng ý khi chúng tôi đặt vấn đề rằng T.T.Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung” (sđd tr 70-72).

- Vì Thanh Châu viết tới… hai tác phẩm?: “Một là truyện ngắn Hoa Ti gôn mà từ đó có thơ của T.T.Kh ‘họa’ lại. Hai là bài tùy bút Những cánh hoa tim vào năm 1939 để kết thúc câu chuyện. Ta thấy gì trong những trang viết của Thanh Châu? Khi xa Vân Chung ra Hà Nội, Thanh Châu đã hết sức sầu thương về mối tình ấy… Trong bài Tùy bút Những cánh hoa tim đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, ông đã thú nhận điều này: “Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái. Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu”. Đó chính là sự chua xót về mối tình giữa ông và Vân Chung mà nay ông đã xác nhận”.

3. Dàn dựng:

a. Thế Nhật dàn dựng cuộc gặp gỡ giữa Thanh Châu và Vân Nương sau 42 năm bằng nội dung HSHTG và “Hoa tim – T.T.KH Phương xa” của Thư Linh Đỗ Thị Lạc: “Năm 1976… có một trung niên lặn lội từ Hà Nội vào Sài Gòn…Đôi mắt chàng dáo dác tìm nàng, người thơ Hai sắc hoa ti-gôn của 42 năm xa cách. Từ 1934, nàng lập gia đình ở vườn Thanh cho đến 1976 chàng mong gặp nàng ở miền Nam… Có người ở Thanh Hóa đã cho chàng hay, bà Lê Ngọc Chấn có người em gái tên Trần Thị Anh Minh…Khi bà Anh Minh ra gặp khách lạ, ông giới thiệu tên và nói thẳng cho cô em vợ ‘hờ’, ông cần gặp T.T.KH.

- Ở đây không có ai là T.T.KH…

- Vậy bà cho tôi hỏi bà Trần Thị Vân Chung, tôi muốn gặp bà và tôi chỉ đi khỏi đây khi gặp được bà ấy….

Em gái bà vẫn nhắc lại lời người khách trung niên kia… Bà không thể tiếp chàng ở nhà được… Chồng đi học tập chưa về, các con đã trưởng thành… Bà khổ tâm vô cùng… Thôi thì một liều ba bảy cũng liều, bà vội vàng cùng cô em gái đi bộ trên đường Nguyễn Minh Chiếu… Ngày xa xưa, cũng chiều thu, bà đã khóc mối tình chính của mình:

Thuở ấy nào tôi có hiểu gì?

Cánh hoa tan tác của sinh ly

Cho nên cười đáp: ‘màu hoa trắng

Là chút lòng trong chẳng nghĩ suy…’’’

Ra khỏi cổng nhà, bà giẫm phải cánh hoa ti-gôn mọc bên tường, hoa một mùa rụng? một mùa nở?nhiều cánh đủ màu mọc bên tường rụng trên mặt đường. Bà hẳn không quên:

… Trách ai mang cánh ‘ti-gôn’ ấy

Mà viết tình em có ích gì?

đến bây giờ vẫn còn đúng với tâm trạng:

… Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ

Đã bọc hoa tàn giấu xác xơ

Tóc úa giết dần đời thiếu phụ

Thì ai trông ngóng chẳng nên chờ…

Hai chị em đã đi hết đường Nguyễn Minh Chiếu, qua Thoại Ngọc Hầu, đến ngã tư, rẽ trái sang Trương Minh Ký. Buổi nay cũng là một chiều thu Saigon, lòng tê tái gặp chàng – như lòng tê tái vào một chiều thu xưa, gió lạnh lẽo vì bà đã lấy chồng, nhớ đến người ấy… đứng ngóng đò:

… Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ

Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu

Gió về lạnh lẽo chân mây vắng

Người ấy sang song đứng ngóng đò…

Giờ này đây, người khách năm xưa ngóng đò đang ngóng chờ bà, bà đã biết rất rõ; cả chàng cũng biết rất rõ:

… Nếu biết rằng tôi đã có chồng

Trời ơi! người ấy có buồn không?

Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ

Tựa trái tim phai, tựa máu hồng…

Bắt đầu rẽ vào hẽm 333 Trương Minh Ký, tim bà đập liên hồi, bà nhớ chồng bà lên đường trình diện học tập cải tạo. Bà cũng nhớ đến những ngày phu quân mê một nữ thư ký ở văn phòng luật sư, nơi ông làm việc. Bà đau khổ về chuyện này không ít, song không dám kêu than, buông lời trách móc, nói làm chi đến ghen tuông. Bởi phu quân bà đã biết rõ, rất rõ vợ mình:

… Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ

Người ấy cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời

Mà từng thu chết, từng thu chết

Vẫn giấu trong tim một bóng người…

Bà sợ con đường này, những con đường khác, nhất là con đường mang tên Trương Minh Ký (thuộc tỉnh Gia Định) sao nó ngắn quá. Bà mong gặp lại, lại mong không nên gặp – nhưng bước chân hai người vẫn bước tới. Bà nhớ đến nội dung một đoạn truyện Hoa ti-gôn…

… ‘Họa sĩ được tin, đem những dây hoa ‘tigôn’ thứ hoa giống hình quả tim vỡ mà trước kia nàng hái ở vườn nhà…’

Chính truyện Hoa Ti-gôn khiến bà buồn khổ khi ở vườn Thanh, buồn qua hôm nay xem tiểu thuyết – bà khóc bằng chính dòng lệ nóng chảy trên gò má; bà khóc nhớ đến khi quyết định bút hiệu T.T.KH ký dưới bài thơ được gửi đăng báo. Bài thơ thứ nhất, Hai sắc hoa ti-gôn, rồi Bài thơ cuối cùng… T.T.KH xưa… Chao ơi! biết bao văn nhân thi sĩ dệt thảo thành huyền thoại, nào là THÂM TÂM KHÁNH, nào là,,, chính chàng cũng làm lạc hướng qua THÁI THỊ KHƯƠNG, TÀO THỊ KHÊ, TRẦN THỊ KHÁNH… hay Nguyễn Bính gửi ‘Cô gái vườn Thanh’. Không một ai biết được bút hiệu T.T.KH khi thành hình kể cả chàng, chỉ biết sau khi bài thơ có bút hiệu ấy, ký dưới những bài thơ. Bà hình dung lại những giây phút tại sao lại đặt là T.T.KH.

- T chữ thứ nhất là: TRẦN

- T chữ thứ hai là: THANH

- KH. hai chữ sau cùng: KHÓC.

T.T.KH cả hai cùng khóc cho mối tình chân ngoài đời – mối tình thơ trong dòng thơ lệ.

Tiếng cô em nhắc sắp đến nhà cô: nghĩa là sắp gặp chàng. Trống liên hồi đập trong trái tim hồng, như cách đây bốn mươi năm ngoài. Lại nhớ đến thơ mình ngày xưa kia, có câu:

… Tuy thế tôi tin vẫn có người

Thiết tha theo đuổi nữa than ôi!

Biết đâu, tôi một tâm hồn héo

Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!

- Cọc, cọc, cọc… tiếng gõ ngoài cổng… rồi tiếng của cô em: ‘… Mở cửa, mẹ đây…’.

Cổng sắt mở nửa cánh, phòng khách phía trước, phải qua một cái sân xi măng. Trên ghế salon bày một cách tuỳ tiện, một khách trung niên, người dỏng cao, mảnh khảnh, lưng hơi gù, đôi mắt sáng, quần áo chỉnh tề…

Thế giới ấy chỉ còn có hai người, họ không cần biết đến có ai xung quanh.

Chàng chạy tới, giơ hai tay chào đón…

Nàng xúc động, run run, mi mắt nằng nặng, thế là dòng nước mắt tuôn rồi. Thân hình nàng ngả về phía trước, lọt vào vòng tay khách trung niên.

Lời thơ Hoa ti-gôn – T.T.KH Phương Xa đến thật gần:

… Tái phùng, trúc cỗi, mai gầy

Lệ thu dàn dụa hương ngây mủi lòng.

Bài thơ ký tắt não nùng

Bao dòng tâm sự ngàn trùng quan san.

Sau đó, người khách trung niên nói với cố nhân: ‘Khi anh về Hà Nội, biết được chồng em có chức vụ quan trọng như thế, đầy quyền uy như thế; anh đành mất thực em rồi…’

Người khách trung niên ấy chính là nhà văn Thanh Châu – tác giả truyện ngắn Hoa ti-gôn ngày trước”. (Thế Nhật, cuốn 1 tr 56-64, cuốn 2 tr 42-47).
b. TĐT dàn dựng cuộc hội ngộ và chia tay giữa Thanh Châu và T.T.Kh qua 3 bài thơ của T.T.Kh và 2 bài của Thanh Châu: Truyện “Hoa Ti-Gôn” và “Những cánh hoa tim”:

- “Thưa bạn đọc, chúng tôi đã có dịp nói chuyện với nhà văn Thanh Châu và chỉ ra với ông việc T.T.Kh đã trách ông. Nhà văn cũng đồng ý với chúng tôi rằng quả thật câu thơ của T.T.Kh có hàm ý như thế. Ở trên, chúng ta có nói đến mối quan hệ giữa tác giả truyện ngắn và tác giả thơ. Qua phân tích cuộc “đối thoại”, chúng ta đã thấy được phần nào mối quan hệ “không phải người dưng” giữa họ. Tác giả truyện ngắn, tức nhà văn Thanh Châu chính là nhân vật ai mà nàng đã trách “Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy/Mà viết tình em được ích gì”. Chúng ta tiếp tục phân tích thêm. Trước hết khẳng định Thanh Châu chính là nhân vật ai trong các câu thơ. Nhưng trong thơ T.T.Kh, ngoài ai ra còn có thêm nhân vật anh: “Giận anh em viết dòng dư lệ/Là chút dư hương điệu cuối cùng”. Vậy nhân vật ai này và nhân vật anh trong câu thơ trên là hai người hay một người?
Có thể có hai trường hợp: Ai là một người bạn của nàng, hoặc ai chính là người yêu của nàng, tức ai chính là anh. Nếu xảy ra trường hợp đầu thì Thanh Châu chỉ là người bạn của T.T.Kh, được biết đến chuyện tình duyên ngang trái của nàng nên cảm hứng viết nên truyện Hoa ti gôn. Nếu xảy ra trường hợp sau thì Thanh Châu chính là người yêu của T.T.Kh.
Chúng ta chú ý, trong ba bài thơ, chỉ có Bài thơ cuối cùng là nàng đối thoại trực tiếp với người yêu mình: “Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?”. Tại sao như vậy? Là vì lúc này nàng đang giận chàng. Nàng muốn nói chuyện “đâu ra đấy” với chàng một lần cho xong. Chúng ta đọc thêm khổ thơ thứ năm: “Từ đây anh hãy bán thơ anh/Còn để yên tôi với một mình”. Ta thấy lúc này nàng cự cãi với chàng một cách khá căng thẳng. Có lẽ chàng vừa gây ra một lỗi lầm gì đó làm cho nàng giận. Liên hệ đến khổ thơ thứ ba có câu “Bài thơ đan áo nay rao bán/Cho khắp người đời thóc mách xem” thì ta sẽ hiểu ngay chuyện gì. Đó là chuyện Bài thơ đan áo, chàng đã lấy nó đem “rao bán” làm cho nàng bực tức. “Rao bán” là từ mà nàng ví von cho hả tức chứ thực sự là chàng đã để lọt bài thơ đó ra ngoài. Bài thơ này vì một lẽ gì đó mà nàng không muốn cho ai đọc. Việc đăng báo bài thơ này có lẽ gây nên điều gì hệ trọng lắm nên nàng đã hết sức tức giận: “Là giết đời nhau đấy biết không”.
Hãy để ý thêm chút nữa. Sau khi nói xong chuyện Bài thơ đan áo, nàng liền quay sang chuyện những cánh hoa ti gôn: “Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét/Thì đem mà đổi lấy hư vinh”. Chúng ta thấy rất rõ: người gây ra chuyện Bài thơ đan áo cũng chính là người nhắc đến những cánh hoa ti gôn. Trước thì nàng cố giấu nhưng bây giờ vì đang tức giận nên nhân nói chuyện này nàng nói qua chuyện kia một thể luôn. Như vậy thì nhân vật ai, người liên quan đến những cánh hoa ti gôn (Trách ai mang cánh ti gôn ấy) và nhân vật anh, người yêu của nàng (Anh hỡi tháng ngày xa quá nhỉ) chính là một. Như vậy mối quan hệ là đã rõ. Thanh Châu chính là người yêu của T.T.Kh. Điều này cũng phù hợp với lời kể của nàng ở khổ thơ đầu trong Bài thơ thứ nhất rằng người yêu nàng là một chàng văn nghệ sĩ: “Thuở trước hồn tôi phơi phới quá/Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương/Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại/ Êm ái trao tôi một vết thương”.
Thật sự ta đã giải mã được vấn đề quan trọng là tìm ra người ấy của T.T.Kh.

Sau khi chia tay, hai người không có điều kiện gặp lại nhau nữa vì đến năm 1954, hai miền Nam Bắc chia đôi, Vân Chung đã cùng chồng vào Nam còn Thanh Châu ở lại quê nhà. Mãi cho đến bốn mươi năm sau, khi miền Nam giải phóng, Thanh Châu mới tìm vào Sài Gòn để thăm lại cố nhân”.

----

4. Dàn dựng xong thì cả hai tiền bối và hậu bối… lãnh đủ:

a. “Tiền bối” Thế Phong nhớ lại trong tùy bút của mình:

Trên (newvietart.com): Về cuốn “T.T.KH – Nàng là ai?”: khen thì ít mà chửi thì nhiều”.

- Thanh Hải “Báo Pháp luật TP HCM ra ngày 18/3/2007 VỤ “KIỆN” TTKH-NÀNG LÀ AI?: “Năm 1994, cuốn sách TTKh – nàng là ai? cuả tác giả Thế Nhật gây xôn xao dư luận vì đã giải mã bí mật về nhân thân của tác giả TTKh. Qua lời kể của bà Thư Linh (bạn của một phụ nữ tên trần Thị Vân Chung), nhà văn Thế Phong khẳng định TTKh chính là TTKh (sinh năm 1919 tại Thanh hoá, sống tại Pháp). Sau khi sách in ra,bà Vân Chung đã gửi thư tới Bộ Văn hoá-Thông tin, NXB Văn hoá-Thông tin, tác giả Thế Nhật và bà Thư Linh để phủ nhận mình là TTKh. Bà Vân Chung tỏ ra bức xúc và khẳng định: Nếu có mặt ở VN, bà sẽ kiện bà Thư Linh về tội vu khống vì “miêu tả sự sỗ sàng của người đàn bà co chồng mà còn có cử chỉ vô luân tồi bại” với người khác. Vụ khiếu nại của bà Vân Chung đối với cuốn sách trên gây xôn xao dư luận báo chí suốt một thời gian dài rồi tạm khép lại”.

- NTKThái độ côn đồ trong văn nghệ” (sđd) cho rằng Thế Phong viết “T.T.KH., Nàng là ai? để vu khống và lừa độc giả”.

- T.T.Kh?! Trần Thị Vân Chung phản đối: “Điều trước nhất tôi xin thưa: ‘Tôi không phải là T.T.Kh! Dưới đây tôi xin nêu rõ từng điểm sai trái, bịa đặt trong cuốn T.T.KH nàng là ai?” (sđd tr 160).
b. “Hậu bối” TĐT theo gương cha chú cũng “hưởng phúc lợi’ như chú cha:

- Việt Duy: Giải mã nghi án T.T.Kh.” của Trần Đình Thu – chưa rõ đúng sai nhưng chắc là phạm luật” (Paris, 20.3.2007, newvietart.com):
“… cái tên T.T.KH vẫn còn là một nghi vần để hôm nay, năm 2007, người ta lại có dịp được “thưởng thức” tài “giải mã” văn (g) học của nhà giải mã Trần Đình Thu mà ngay trang bìa 4 cuốn sách với những hàng chữ: ‘Năm 1994 một người cung cấp cho ông Thế Phong một thông tin mật”: T.T.Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung hiện sống ở Pháp. Thông tin ngắn ngủi và không có bằng chứng nhưng ông Thế Phong đã viết thành một cuốn sách với tựa đề hấp dẫn: T.T.Kh nàng là ai? Khi cuốn sách phát hành, bà TTVChung công khai phủ nhận, cho rằng mình không phải là T.T.Kh.
Năm 2004, tác giả Trần Đình Thu lật giở toàn bộ tư liệu liên quan để xem lại. Thật bất ngờ (ông TĐT chỉ cần lật giở toàn bộ tư liệu đã có sẵn là giải mã ngay chóc! tài thật) khi kết quả giải mã cuả ông trùng khớp với thông tin được tiết lộ trước đây.(thông tin nào trước đây, thưa ông TĐT?) “T.T.Kh chỉ có thể là Trần thị Vân Chung “Đó chính là những gì được trình bầy trong sách bạn cầm trên tay – (Sách do NXB Văn hoá Saì Gòn và Cty Cadasa thực hiện xuất bản, phát hành tại Tp HCM qúy 1/2007. Sách dầy 192 trang, khổ 13×19cm, gía bán 23000 VNĐ – “tác giả” Trần Đình Thu.) .
Chỉ với những dòng chữ trên đây người đọc đã cảm thấy có điều gì rối rắm mập mờ trong công cuộc “giải mã vĩ đại “của nhà giải mã TĐT: lập luận ở trên thì vào năm 1994 với Thông tin ngắn ngủi và không có bằng chứng nhưng ông Thế Phong đã viết thành một cuốn sách với tựa đề hấp dẫn: T.T.Kh nàng là ai? nhưng lập luận ở dưới: Năm 2004 (1994-2004), tác giả Trần Đình Thu lật giở toàn bộ tư liệu liên quan để xem lại…. (hồ sơ tư liệu nào để ông lật giở thưa ông TĐT ??? phải chăng là hồ sơ tư liệu lấy từ “thông tin ngắn ngủi và không có bằng chứng” trong phần Phụ Lục quyển sách T.T.K.H NÀNG LÀ AI ? của – Thế Nhật – NXB Văn Hoá Thông Tin Hà Nội 1994). Sự luộm thuộm, dấu đầu hở đuôi trong công trình giải mã, lật giở hồ sơ tư liệu cuả ông TĐT lại thấy trong một bài “TỰ HỎI rồi TỰ ĐÁP” của chính ông TĐT… Khi đọc bài HỎI và ĐÁP trên người ta nhận ngay được nhà giải mã T.Đ.T đã “GIẢI MÔ thật vô cùng “vất vả” với những gì đã được ông Thế Phong “dọn sẵn cỗ” cho ông rồi và ông chỉ cần sao chép lại thêm thắt vài việc (chẳng lẽ lại chép tuốt hết sách của ông Thế Phong thì coi kỳ qúa xá!) rồi làm cách nào để ngụy trang những gì sao chép không quá gây sốc, để không không thể chịu đựng nổi. Thế là với: Thông tin ngắn ngủi và không có bằng chứng nhưng ông Thế Phong đã viết thành một cuốn sách với tựa đề hấp dẫn T.T.Kh nàng là ai? được ông TĐT “giải mã” trùng khớp với thông tin được tiết lộ trước đây (thông tin được tiết lộ trước đây: “cuỗm” từ TTKH Nàng Là Ai? của Thế Nhật). Rồi nhà giải mã T.Đ.T khiêm tốn tuyên bố một câu “xanh rờn”:
- Tôi tin rằng tôi là người cuối cùng khép lại được nghi án này sau 70 năm để ngỏ… Ông giải mã TĐT chẳng những phạm luật theo những nhận xét của các Luật Sư Trương Thị Hòa và Phạm Quốc Hưng trong Đoàn Luật Sư TP.HCM mà còn phạm một luật chơi tuyệt đối cấm kỵ của giới cầm bút: Sao Chép Ý Tưởng của Thế Nhật mà chàng giải mã vĩ đại cứ phớt tỉnh Ăng Lê, lờ tịt đi xuất xứ lấy từ đâu ra (trong văn chương gọi là đạo văn, đạo ý – ngoài đời gọi là “cuỗm”, “thuổng” hay nói nôm na là “ăn cắp”) rồi mập mờ đánh lận con đen xử dụng cái trò tiểu xảo “ăn theo” “hùa theo” “ăn có”(một việc làm chẳng đẹp tý nào).
Thành Danh trong Sự Nghiệp Văn Chương có rất nhiều phương cách.
Nhà giải mã TĐT đã chọn cho mình phương cách đi TẮT cho NHANH, cho GỌN, cho DỄ , GÂY ĐƯỢC TIẾNG NỔ dù THƠM dù THỐI nhà giải mã TĐT cũng “đếch” cần miễn làm sao được nổi danh liền tuýt suỵt là đủ .May mắn thay cho nền văn chương Việt Nam ngày hôm nay không có nhiều người cầm bút đi tắt theo kiểu NHÀ ĐẠI GIẢI MẢ VĂNG HỌC TĐT”!.
- Thanh Hải (Báo Pháp Luật ngày Chủ Nhật 18.3.2007, 10.ttvnol.com): “GIẢI MÃ NGHI ÁN T.T.KH” của ông TĐT CHƯA RÕ ĐÚNG SAI NHƯNG CHẮC LÀ ông TĐT PHẠM LUẬT: “CUỐN SÁCH THỨ HAI VỀ TTKH: “Sau một thời gian dài bị nhiều nhà xuất bản từ chối vì ngại xảy ra vụ kiện tương tự, mới đây (tháng 2-2007), cuốn” Giãi mã nghi án văn học TTKh” cuả Trần Đình Thu đã được NXB Văn hoá Sài Gòn cho in. Tác gỉa TĐThu cũng khẳng định bà V Chung chính là “nghi can số một” trong” nghi án văn học” này vì bà VChung có nhân thân giống TTKh đến mức kỳ lạ. Để chứng minh lập luận trên, ông TĐThu đã trích dẫn một số bài thơ của bà VChung (do bạn bè cuả bà V Chung cung cấp) để độc giả có sự sánh về phong cách thơ của bà V Chung với TTKh. Tác giả nhắc lại ngày sinh, quê quán, gia cảnh, cha mẹ cùng thân thế của chồng bà Vân Chung để khẳng định bà là người có nhân thân phù hợp nhất với TTKh. Ngoài ra tác gỉa cũng có nêu rõ hoàn cảnh quen nhau giữa bà VChung và người tình cũ, lý do hai người chia tay… Bìa trong cuốn sách còn in ảnh bà VChung và chú thích rõ: “bà T T V Chung thời còn trẻ (…). đây là người được khẳng định là TTKh”.
XÂM PHẠM BÍ MẬT ĐỜI TƯ:
Sách ra xong, bà V Chung lần nữa lại gửi thư phản đối, nói rằng không thể coi sách là tài liệu văn học, vì đã nêu tên tuổi, đưa hình ảnh, chà đạp lên đời sống cá nhân mà không xin ý kiến của người trong cuộc. Theo ông TĐThu thì ông chỉ muốn nghiên cứu “giải mã TTKh” để ghi đúng tên tác giả những bài thơ trên vào danh mục tác giả văn học. Ông khẳng định sách của ông chỉ viết “bà V Chung là TTKh” chứ không xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của bà. Mặt khác, theo ông, thì nội dung sách không phạm điều cấm của Luật Xuất Bản nên chẳng có gì để nói ông phạm pháp luật.
Về vấn đề này, luật sư Trương Thị Hoà (Đoàn Luật sư TP.HCM) tỏ ra khá “ủng hộ” tác giả TĐThu ở khía cạnh đi tìm tên thật tác gỉa TTKh: “Những bài thơ của TTKh đã được lưu truyền và nổi tiếng trong 70 năm qua. Việc nghiên cứu để ghi đúng tên tác gỉa của những vần thơ bất hủ đó là việc đáng ghi nhận và khuyến khích”. Tuy nhiên Ls T.T.Hoà cũng lưu ý:” Việc công bố các tư liệu có liên quan đến đời tư của cá nhân phải được sự đồng ý của họ. Nếu việc công bố vô hại và người trong cuộc cũng không có ý kiến gì thì họ có thể chấp nhận được”. LS Phạm Quốc Hùng (Đoàn LS TP.HCM) phân tích sâu hơn hành vi xâm phạm đời tư:” Việc công bố, đăng tải những thông tin về đời tư mà không được sự đồng ý của người đó là vi phạm Điều 38 Bộ luật Dân sự về bí mật đời tư của cá nhân, có thể bị kiện bồi thường thiệt hại và thu hồi sách. Ngoài ra, việc tự ý đăng những bài thơ khác của bà V Chung là vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ”.

III. Đánh giá chung:

1. Ưu:

- Ba tác giả hai cuốn sách nói trên đều cố gắng giải mã ẩn số văn học T.T.Kh từ 1937 đến nay. Đó là một ẩn số văn học hấp dẫn mà các bậc nghiên cứu tiền bối đành… thúc thủ!

- Tư liệu tham khảo dẫn chứng tương đối đầy đủ các bài viết chính của Thanh Châu, MGL, Hoài Anh, Hoàng Tiến, Nguyễn Vỹ, Hoài Việt, HT- HC và các bài thơ có liên quan chính của T.T.Kh và TT, NB.

- Các tác giả có đưa ra được vấn đề mâu thuẫn trong thơ (thi pháp, nội dung) của các nhân vật liên quan để loại bỏ các “tình nghi viên” là T.T.Kh như TT, Trần Thị Khánh hay “tình nghi viên” người yêu của T.T.Kh như TT, NB.

- Các tác giả tìm đủ mọi cách để “khoanh vùng” hai bài viết của Thanh Châu và thơ T.T.Kh để tìm sự tương đồng là “Hoa Ti-Gôn” để cùng nhất trí khẳng định Thanh Châu là người yêu của T.T.Kh.

- Các tác giả cũng tìm cho bằng được “nhân chứng” (Thư Linh Đỗ Thị Lạc) và “vật chứng” (Hoa Tim – T.T.Kh Phương Xa của Đỗ Thị Lạc) cùng nội dung các bài thơ nhất là HSHTG để chỉ chứng chính Trần Thị Vân Chung (Vân Nương) là T.T.Kh.

- Các tác giả sau khi có trong tay tư liệu về Thanh Châu và Trần Thị Vân Chung đã cố gắng sắp xếp, bố trí các nội dung trên để độc giả tin rằng tất cả những thao tác đó đã phù hợp với sự tìm ra “T.T.KH., Nàng là ai?” của Thế Nhật và “Giải mã nghi án văn học T.T.Kh” của T ĐT: Đó là cuộc gặp gỡ và chia tay tình duyên giữa Thanh Châu và Vân Nương – T.T.Kh. Đó là cuộc gặp lại sau 42 năm (Thế Nhật) và 40 năm (T ĐT) ly kỳ giữa trung niên Thanh Châu và bà góa phụ Lê Ngọc Chấn – Trần Thị Vân Chung được cho là T.T.Kh.

- Các tác giả đã không “đạo ý tưởng” T.T.Kh là TT, là Khánh, là NB… mà tìm ra nhân vật mới toanh “Vân Chung” để lập nên một nghi án khác “Thanh Châu là người yêu của T.T.Kh và T.T.Kh là Trần Thị Vân Chung”!?

Tất nhiên, dù có nguyên vật liệu trong tay (hành tiêu ớt tỏi, cá mắm, rau thịt…) nhưng nấu món nào thì dung nguyên vật liệu gì? Gia vị nào mới phù hợp? Người ăn khoảng bao nhiêu thì vừa, đủ? Lượng cay, ngọt, mặn như thế nào mới hợp các cái lưỡi của mọi người trên bàn cổ? Các tác giả này đã hằm bà lằng đổ hết bấy nhiêu gia vị vào một cái thùng nước lèo rồi đốt lửa…

2. Khiếm khuyết:

a. Chung:

- Tất cả nguồn tư liệu đều chưa được rõ ràng.

- Xử lý chưa chín tư liệu hai cá nhân Thanh Châu và Trần Thị Vân Chung để xảy ra hiện tượng người trong cuộc phản ứng quyết liệt và đòi thưa kiện.

- Kỹ thuật phân tích tâm lý nhân vật, phân tích thơ, truyện chưa đủ… mặn ngọt cho vừa lưỡi ai!

- Thiếu tính nghiêm túc của Lý luận – Nghiên cứu văn học khi áp đặt nội dung truyện, thơ và lý lịch cá nhân nhân vật theo cách hiểu của mình mà không cần ý kiến người trong cuộc.

- Kết luận vội vã, chủ quan khác nào cho người ăn cá sống, chưa đủ lửa.

- Phương pháp nghiên cứu văn học còn mang cảm tính: Thấy một chiều nằm mà không thấy không gian có… bốn chiều!

b. Riêng:

Với Thế Nhật:

- Về khâu tư liệu:

+ Ghi tư liệu tham khảo “Tiểu thuyết thứ bảy – xuất bản 1937 tại Hà Nội” là chưa chính xác. TTTB của Vũ Đình Long cũng như “Tiếu thuyết thứ năm” của Lê Tràng Kiều hay “Phong hoá – Ngày nay” của Nhất Linh – Khái Hưng… là những tờ báo lớn phát hành theo ngày, thứ, tuần ở Hà Nội chứ không phải “xuất bản”… như một cuốn tiểu thuyết hay truyện gọi là sách.

Thế Nhật đã đọc được bản chính của TTTB thì nên đính chính, chỉnh lý cho người đọc những bản chép sai quá nhiều trong cách bài viết của người khác. Chẳng hạn như bài “Các anh”, 4 bài thơ của T.T.Kh để ghi ngày tháng năm cho chính xác hơn. Nếu như Thế Nhật đã đọc ở “Thư viện Khoa xã hội (34 Lý Tự Trọng, Quận 1) và Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM” thì nên ghi rõ nguồn cuối cùng này.
+ Tư liệu tham khảo không thể ghi “cuội” như “Và các báo xuất bản trong và ngoài nước”. Với tư cách là người viết sách, bình văn, yêu cầu chính là “Tư liệu phải rõ ràng”: Bài nào? Báo nào? Đăng ở đâu? Ai viết? Web nào đăng? Sách nào in? Web nào đăng lại của web nào? Người nào chép lại của người nào?…

- Về phương pháp:

+ Chỉ qua một bức thư của bà Đ.T.L có nhắc tới T.T.Kh: Thế Nhật nói chưa rõ ràng. Trong bức thư đó, bà Đ.T.L có nói tới câu “mớn mồi” của Thế Nhật “vì thấy ý anh muốn vậy nên viết cho anh vui lòng”. Tức là bà Đ.T.L đã viết theo “đơn đặt hàng” của Thế Nhật. Viết theo đơn đặt hàng thì có gì mà tư liệu với tư chất? Nghĩa là trước đó, hai người có nói qua, bàn lại về T.T.Kh rồi.

+ Chỉ một “nhân chứng” (Đỗ Thị Lạc) chưa “nặng ký” và “vật chứng” chưa đủ “đô” (bài thơ “Hoa Tim” của Đỗ Thị Lạc) mà Thế Nhật nhanh chóng thay đổi nhận định của mình về T.T.Kh trước đó bằng ba từ “đã khác đi”? Điều nóng vội này khiến cho Thư Linh Đỗ Thị Lạc cùng tác giả Thế Nhật “ăn cho hết… thùng nước lèo hằm bà lằng” tự mình làm “đầu bếp” từ người bị đưa lên giàn hỏa thiêu là… Trần Thị Vân Chung. Bà Vân Chung đã gởi thư đăng báo phản ứng gay gắt tới 9 điều không chính xác trong cuốn “T.T.KH, Nàng là ai?”

May thay! Thanh Châu sau khi “nóng gà” thì đã tiêu diêu cực lạc ngày 8/5/2007 rồi. Tất nhiên, Thanh Châu không phải là Chu Du. Thế Nhật chẳng phải là Khổng Minh nên chuyện Chu Du uất Khổng Minh thổ huyết mà chết chẳng bao giờ xảy ra!

+ 9 điều sai cơ bản trong cuốn “T.T.KH. Nàng là ai?” của Thế Nhật mà bà Vân Chung chỉ rõ:

1. “Trong sách viết chúng tôi làm đám cưới năm 1934… Tôi sinh năm 1917, nếu lấy chồng 1934, tôi mới 15 tuổi hay sao? Trong sách viết tôi gặp ông Thanh Châu năm 17 tuổi, sao mâu thuẩn quá vậy? Sao quá vụng tính toán cho thời gian không ăn khớp nhau?

2. Chúng tôi hơn nhau ba tuổi. Nhà tôi tuổi Bính Thìn (1916), tôi Kỷ Mùi (1919), sao lại viết hơn nhau 9 tuổi? Có lẽ (tác giả) muốn chứng minh cho đúng với thời gian xuất hiện thơ T.T.Kh vào năm 1937 cho hợp với câu thơ “Tóc úa giết dần đời thiếu phụ” và “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi” chăng?

3. Nói về gia đình tôi cũng không đúng! Bố tôi không làm quan (cũng như khi làm đám cưới, nhà tôi chưa là ‘quan huyện’!). Chúng tôi có tám anh em (ba trai, năm gái) chứ không phải năm người. Tôi là thứ ba, không phải trưởng nữ, thế nên tôi đã có bút hiệu Tam Nương.

4. Tôi không viết bút ký hay có thơ đăng báo Ngôn Luận trước năm 1975, cũng như bút hiệu Lê Phương Đông, chứ không phải Lê Đông Phương.

5. Nhà tôi bị chính phủ Ngô Đình Diệm bắt giam tại khám Chí Hòa ba năm (1960 – 1963) chứ không phải đi đày Côn Đảo.

6. Năm 1976, tôi vẫn ở cư xá Nông Tín, đường Trương Minh Ký cũ, từ 1972 – 1982. Mãi tới năm 1980, nhà tôi đi cải tạo về, chúng tôi có giấy xuất cảnh mới bán nhà này, dọn về ở nhờ nhà chị Mộng Tuyết, đường Nguyễn Minh Chiếu cũ vào năm 1982.

7. Câu chuyện (chị Thư Linh và tác giả Thế Nhật) tạo dựng vào năm 1976; ông Thanh Châu gặp tôi ở nhà em Minh (vợ nhà thơ Hà Thượng Nhân) cũng hoàn toàn thêu dệt, vu khống. Sự sỗ sang của một người đàn bà có chồng rồi mà còn cử chỉ vô luân tồi bại đã tả trong cuốn sách T.T.Kh nàng là ai? (từ tr. 54 tới tr. 65), nếu chúng tôi có mặt tại quê nhà đã đưa chị ra tòa, kiện về tội mạ lỵ và vu khống!

8. Vì sự thật năm 1976, ông Thanh Châu vào Nam có nhờ cô em họ tôi dẫn tới thăm tôi tại cư xá Nông Tín, đường Trương Minh Ký cũ…Cuộc gặp này chỉ hoàn toàn có tính cách như hai người bạn cũ gặp lại với sự hiện diện của cô em họ, rất đàng hoàng, đứng đắn. Vì trải qua bốn mươi năm, cả hai bên đều đã an phận từ lâu, cả hai đều có bổn phận với gia đình mình. Hơn nữa, ông cũng là bạn thân của ông anh ruột tôi từ hồi còn ở Thanh Hóa. Tôi còn gặp ông một lần nữa tại nhà anh chị tôi khi ông đến chào để về Bắc. Như vậy tôi nghĩ đâu có gì đáng nói khi đã coi nhau như bạn?

9. Bôi nhọ nhà tôi, đúng là người chết rồi cũng không được buông tha: ‘Bà cũng nhớ ngày phu quân mê một nữ thư ký ở văn phòng luật sư, nơi ông làm việc…

Tôi xin thưa: Trước sau văn phòng luật sư của nhà tôi chỉ có hai cô thư ký: một cô là phật tử, trong gia đình phật tử chùa Quán Sứ, Hà Nội. Khi vào Nam, cô đã là huynh trưởng của bốn đứa con chúng tôi, trong gia đình phật tử chùa Phước Hòa, Sài Gòn vào thời gian đó. Vài năm sau, cô đi lấy chồng nên đã thay thế con gái của một người bạn chúng tôi và cũng là bạn chơi phong lan của (nhà văn) Nhất Linh – Nguyễn Trường Tam, một gia đình nho phong ngoài Bắc vào Nam năm 1945… và tuy làm thư ký văn phòng, chúng tôi vẫn coi như hai cô cháu trong nhà…” (T.T.KH nàng là ai? Thế Nhật, sđd).

9 điều này, Thế Nhật nhận hết trong “T.T.KH nàng là ai” cuốn 2 năm 2001.

+ Thế Nhật đã sai nguyên tắc cơ bản mà bà Vân Chung nêu ra: “Bởi vì đã gọi là ‘tài liệu văn học’ thì sự việc và nhân vật phải cho thật chính xác. Cuốn sách được nêu đích danh tôi: Vân Nương Trần Thị Vân Chung, nên tôi gởi thư này tới quý vị, lên tiếng đính chính những điều sai trái, lẫm lỗi trong cuốn T.T.Kh nàng là ai?… Chỉ tiếc hành động của quý vị đã quá hấp tấp (nếu không nói là quá sơ suất).Vì theo thông lệ: trước khi khi xuất bản một cuốn sách thuộc về ‘tài liệu văn học’,gọi đích danh đương sự, nêu hình ảnh, chà đạp lên đời sống cá nhân v.v… quý vị cũng nên thận trọng trong hành động, phải lắng nghe ý kiến của cả hai bên. Qúy vị có thể liên lạc thẳng với tôi hỏi xem thực hư ra sao, để tránh những lỗi lầm tai hại…”.

Đây là một việc làm hết sức thận trọng của người nghiên cứu. Phim sắp dựng “The sorrow of war” (Nỗi buồn chiến tranh) của Bảo Ninh do đạo diễn người Mỹ Nicolas Simon, biên kịch là Peter Himmelstein khởi quay lại phải đình tới đình lui chờ đạo diễn khác khi Bảo Ninh tuyên bố: “Không dính líu tới bộ phim này” vì thấy rằng tư tưởng tác phẩm của mình đã bị sửa đổi. Ta là Người chỉ khi nào trái tim ta là trái tim của lý trí.

Việc một tác phẩm đã bán tác quyền thì không được quyền gì về mặt pháp lý là phi nhân văn. Bán tác quyền có nghĩa là bên bán không sử dụng tác phẩm của mình nữa chứ không phải bên mua muốn thêm bớt cái gì vào cho mặn mòi theo “thị hiếu” khách hàng. Luật nào ra cũng không bằng luật lương tâm và trách nhiệm. Phản ứng của Bảo Ninh là đúng đắn. Bán con cho người ta nuôi, dạy chứ không phải bán con cho người ta biến thành “con mèo Trạng Quỳnh”. Sửa đổi tư tưởng tác phẩm đã mua tác quyền hay “đạo ý tưởng” chi bằng mình… viết lấy có tốt hơn không? Những người cầm bút chân chính, cha mẹ những tác phẩm chân chính sẽ không bao giờ “tàn nhẫn” bán con mình! Đây là một bài học muôn đời!

Hôm nay, sự kiện xảy ra khi một tác phẩm viết về đời tư một tác giả mà sai be bét khác gì sửa đổi tư tưởng tác phẩm!

+ Thế Nhật đã “gậy ông đập lưng ông” như thế nào?

- Thế Nhật cho rằng Nguyễn Vỹ “dựng đứng lên mối tình Thâm Tâm và Trần Thị Khánh với bao tình tiết éo le, diễm lệ sặc mùi cải lương”. (sđd tr 38). Thế nhưng, người đời dễ dàng chấp nhận cuộc tình TT – Khánh này hơn là Thế Nhật đã “mối mai” cho Thanh Châu và Trần Thị Vân Chung trong vai – T.T.KH?! Nguyễn Vỹ không khẳng định Trần Thị Khánh là T.T.Kh vì cô ta không biết làm thơ. Điều này đã kiểm chứng bằng văn học và tâm lý thời cuộc. Trần Thị Vân Chung biết làm thơ nhưng, chết nổi! Người ta không tìm ra thơ bà này trong khoảng thời gian đó dù dưới những bút hiệu khác? Tại sao? Tại vì theo NTK “Huyền thoại, chỉ nên mãi mãi là huyền thoại”: “từ đầu thập niên 50 trở về trước, Vân Nương chưa làm thơ. Do đấy, Vân Nương không phải là T.T.Kh.!” (sđd tr 207).

- Thế Nhật cho Nguyễn Vỹ nhầm lẫn vườn Thanh trong thơ T.T.Kh là vườn Thanh Giám nhưng thật sự, vườn Thanh Giám nhiều hoa Ti-Gôn này ở Hà Nội nghe ra đáng tin hơn vườn Thanh nào đó ở Thanh Hóa hay Thanh Miện. Thanh Hóa là nơi huyền thoại và lịch sử. Thanh Hóa không hề nghe có huyền thoại về hoa Ti-Gôn mà chỉ có những di tích lịch sử về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, với những dòng tộc đế vương: Hồ Quý Ly, Lê Lợi và Nguyễn Hoàng, với “địa linh nhân kiệt” như Lê Phụng Hiểu, Nguyễn Hữu Cảnh, Đào Duy Từ… và nơi của cửa Trình, sân Khổng, của Tứ Vị Thánh Nương, Đông Hải Đại Vương, miếu đường, thần ấp, hội hè. Thanh Hóa chỉ có những thắng cảnh Sầm Sơn, động Đông Quan, cầu Hàm Rồng, Đông Sơn, Khu du lịch Nga Sơn, Lam Kinh… Ngoài ra, nếu T.T.Kh ở Thanh Hóa, ngoài 12 phường, 6 xã chẳng có một chữ Thanh thì còn vớt vát “Công viên Thanh Quảng” nhưng ở đấy, có hoa Ti-Gôn không? Nhắc tới một kỷ niệm mà chẳng ăn nhập gì với tín hiệu tình yêu đó thì nhắc làm gì? Ai hiểu?

Nếu Vân Chung ở Thanh Hóa thì có ăn nhập gì tới T.T.Kh với với vườn Thanh Giám đầy hoa Ti-Gôn ở Hà Nội? Nguồn cảm xúc của Thanh Châu từ hoa Ti-Gôn mọc đầy Hà Nội chứ có nói mọc đầy ở Thanh Hóa đâu!

- Vườn Thanh trong HSHTG đúng là vườn Thanh Giám – Văn Miếu – Hà Nội.

Theo lời kể của Hồ Thông (sđd), TT nói rằng Trần Thị Khánh hay Từ Thị Khánh là người Phủ Thường Tín, gốc Khê Hồi. NTK đã chú giải, Khánh họ Từ đúng hơn họ Trần: “Đi từ phố ga Thường Tín qua làng Bình Vọng và vượt một quãng đường ruộng là tới làng Khê Hồi. Làng này xưa có vị quan nổi tiếng: cụ Từ Đạm! Các ông Từ Động (người ký trên giấy bạc thời Đệ I VNCH), BS Từ Uyên v.v… có lẽ là con cháu của cụ. Ngoài ra có cụ Từ Ngọc Liên (các con trai và con gái cụ là Từ Ngọc Bích, Từ Ngọc Quỳ, Từ Ngọc Tỉnh, Từ Ngọc Lân… Từ Ngọc Long và chị Từ Thị Dung… cụ Từ Duy Nhạ… Và nàng T.T.Kh, theo lời kể, rất có thể là người làng Khê Hồi, họ Từ. Tiếc quá, tôi còn có cô bạn học cùng lớp là Từ Thị Ren ở làng Khê Hồi mà dạo xưa vì giữ ý nên chẳng bao giờ tôi đề cập đến nàng T.T.Kh.với cô để hỏi cho rõ. Từ năm 1937 cho tới 1940, đồng bào không ngớt nhắc tới “Hai sắc hoa Ty-gôn” thơ của T.T.Kh. và chuyện một hoa khôi làng Khê Hồi là cô Từ Thị Minh Kha rất được nhiều người ngưỡng mộ… Chúng tôi rất tiếc là đã không tới Trường Tiểu học Sinh Từ vào đầu thập niên 40 và hỏi bạn hữu ở làng Khê Hồi để tìm hiểu cho rõ lý lịch T.T.Kh. Thật uổng!” (sđd tr 200 – 201).

Vậy, ta tin có Từ Thị Khánh (chưa phải là T.T.Kh) người yêu của TT hơn là Trần Thị Vân Chung bị ép là T.T.Kh làm người yêu của Thanh Châu! Tréo cẵng ngỗng về chuyện hai người quen nhau ở vườn Thanh (chưa kiểm chứng được). Nhưng Thanh Châu thì ngoại lệ vì ông nói rõ nguồn cảm hứng của mình ở Hà Nội với hoa Ti-Gôn rụng ngập trời. Còn Vân Nương ở Thanh Hóa lại nhập vai T.T.Kh nói về hoa Ti-Gôn ở Hà Nội của Thanh Châu. Té ra, chú Thế Nhật nhà ta đã “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia“! Nguyễn Vỹ về chuyện này quả không “nhầm lẫn” mà chính Thế Nhật vội vã không suy nghĩ mới “bé cái nhầm!”.

- Chi tiết “Truyện Hoa ti-gôn in trên nhà báo Hà Thành” (tr 50) là hơi lạ! Ai cũng biết là Thanh Châu đã đăng nó lên TTTB nơi ông cộng tác.

+ Thế Nhật giải quyết vấn đề chưa tới chốn:

- Thế Nhật “ép” Thanh Châu khi chặt khúc truyện ngắn hay hồi ức của Thanh Châu mà cho rằng Thanh Châu “lơ đãng không giữ lại những dòng chữ run run trong một bức thư ngắn”. Rồi Thế Nhật cho rằng Thanh Châu: “vì không muốn công khai tên tuổi của mình, mà người con gái tác giả bài thơ kia gửi tới” (tr 32). Như vậy, theo Thế Nhật: Thanh Châu biết rõ người tác giả bài thơ là ai? Là người yêu của ông – Trần Thị Vân Chung ngay lúc ấy là T.T.Kh? Vậy khi hai người yêu nhau, chắc chắn ông biết rõ bút tích của Vân Nương. Nay ông nhận ra chữ của nàng, ông biết mà ông… câm! Nếu ông còn sống, chẳng hiểu khi thấy bút tích Vân Nương trên sách NTK, Thanh Châu có nhận ra “dòng chữ run run” của nàng T.T.Kh khi xưa?!

Vân Nương năm 1937 (lấy chồng năm 1934 khi… 15 tuổi, xuất hiện ở Hà Nội năm 1937 (18 tuổi) làm thơ!?? Lần đầu tiên làm thơ mà thơ nhuần nhuyễn mới… kỳ tài? Vậy mà cái tài này “trắc nghiệm, khảo hạch” thử qua các bài thơ nàng Vân Nương do Thế Nhật cung cấp hay NTK so sánh thì… tài năng bốc khói! Thế Nhật từng “mạt sát”: “thơ tranh đầu, xưng tụng anh hùng ca của Vân Nương (nói riêng) thuộc vào loại thơ tồi… vì thơ còn ấu trĩ về tư tưởng, non nớt về nghệ thuật, chẳng dễ làm rung động được ai” (sđd tr 79). Ai mới làm thơ đều chẳng non nớt. Nếu nhận định như thế, NTK nói không sai là Vân Nương chỉ mới làm thơ sau 1950.

Vân Nương nếu biết Thanh Châu viết cho TTTB tức Thanh Châu ở Hà Nội. Vậy khi Vân Nương – T.T.Kh của Thế Nhật lấy chồng thì nàng ở đâu mà Thế Nhật xuýt xoa rằng: “Chồng hơn vợ chín tuổi, cuộc sống gia đình hạnh phúc bề ngoài, vợ chung tình sẻ nửa bên người bên ta thấm thía mầm bi kịch nội tâm. Còn chàng ở Hà Nội xa tít phương trời xa, bỏ dở học Tú tài, chàng viết văn, làm báo” ?(tr 50).

Vậy, Thanh Châu và Vân Nương “yêu nhau” ở Thanh Hóa hay Hà Nội? Yêu nhau mấy năm rồi xa? Năm 1934, Vân Nương lấy chồng, “một mùa thu cũ” chẳng lẽ 13 tuổi, Vân Nương yêu Thanh Châu? Vân Nương khi lấy chồng rồi vẫn ở Thanh Hóa hay đi đâu mà có câu “Còn chàng ở Hà Nội xa tít phương trời xa” của Thế Nhật tung ra. Thành phố Thanh Hóa cách Hà Nội khoảng 350 cây số, “tuy xa mà gần, tuy gần mà xa”!. “Và còn xa mấy nữa”, khi Thế Nhật quá đà…!

Lưu Khánh Thơ trong “Thanh Châu” (Từ điển Tác giả, Tác phẩm Văn học Việt Nam, Nxb ĐHSP – 2004) ghi rõ: “Thanh Châu làm báo, viết văn ở Hà Nội (từ những năm 30), cộng tác chủ yếu với tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy (ra đời năm 1934)”.

Vậy thì chàng Thanh Châu ốm o này phải lặn lội từ Hà Nội vào Thanh Hóa mấy bận để yêu cô bé 13-14 tuổi. Hèn chi… mập không nổi!? Chi tiết thời gian không ăn khớp với thời điểm, chẳng hợp tâm sinh lý này đã chỉ ra lỗi của Thế Nhật… vồ vập tư liệu một cách “tham lam” nên… mắc nghẹn!

+ Thế Nhật ghi: “Cuộc tình chia ly, cách xa từ 1934 cho đến 1954 tính ra 20 mùa xuân cách biệt. Chàng núp bóng trong vai họa sĩ Lê, cũng: “một mùa thu cũ, tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng đi trước một giàn hoa…”.

Không hiểu, Thế Nhật trích mấy câu trong “Những cánh hoa tim” của Thanh Châu như trên với thời gian 20 năm là ý gì? Bởi thời điểm 1954 không có gì đặc biệt trong cuộc tình hai người và nếu đem thời điểm 20 năm để Thanh Châu viết “Những cánh hoa tim” như Thế Nhật trích trên là không phù hợp thời gian nữa! Lẽ ra, Thế Nhật phải viết như thế này: “Cuộc tình chia ly, cách xa từ 1934 cho đến 1937 tính ra 2 mùa xuân cách biệt. Chàng núp bóng trong vai họa sĩ Lê, cũng: “một mùa thu cũ, tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng đi trước một giàn hoa…” thì mới có ý nghĩa vì bài này, Thanh Châu đã viết năm 1939. Nhưng “mùa xuân cách biệt” chữ dùng của Thế Nhật cũng “trật đường rầy”. Phải viết là “mùa thu cách biệt” mới hợp gu với “một mùa thu trước, một mùa thu cũ” chứ?

Thế Nhật ”áp đặt” cho Thanh Châu quá nhiều cái mà ông không có:

+ Lấy câu“… Hoa leo ti-gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người…” KHÁI HƯNG (Gánh hàng hoa) đặt đầu truyện ngắn “Hoa Ti-Gôn” mà cho rằng: “Chàng đã mượn văn thơ của tác giả Gánh hàng hoa để trách người tình về lòng bất trắc của nàng. Đúng là như vậy!”.

Nhưng khi đọc truyện này, con nít cũng hiểu Thanh Châu chỉ viết cho hai nhân vật có thật của mình ở Hà Nội chứ chẳng có bà Vân Chung – T.T.Kh nào lọt nào đấy cả! Điều này, Thanh Châu đã hồi ức rất rõ ràng từ năm 1939 trong “Những cánh hoa tim”.

- Chuyện cảm hứng qua, cảm thơ lại mà có thơ là chuyện của văn nghệ. Thế giới văn thơ không có ngoại cảm, tâm cảm này thì thành thế giới chết! Không thể lấy hiện tượng ngoại cảm nhập tâm đó để gán ghép cho người ta có tình ý với nhau. Ví dụ như Lưu Quang Vũ là kịch tác gia lớn của nghệ thuật kịch Việt Nam đã cảm “Hai sắc hoa Ti-Gôn” mà viết bài thơ “Hoa Ti-Gôn”:
(Tặng Giang)
Nhà văn xưa tôi yêu mến mê say
Nay già lão được chính quyền sủng ái
Lưng còng xuống quên cả lời mình nói
Phản bội những điều trong cuốn sách thiêng liêng

Bác tôi chỉ huy trinh sát trung đoàn
Người anh hùng tuổi thơ tôi thán phục
Nay thủ trưởng một văn phòng lớn
Suốt ngày lau xe đạp chữa đèn pin

Cô bé tôi yêu giờ đã lấy chồng
Béo tốt càu nhàu tẻ nhạt
Thằng bạn nhỏ cùng vui đùa thưở trước
Cụt hai chân từ mặt trận lê về

Chỉ lũ chim xưa vẫn đập cánh bên hè
Hoa tigôn đẫm nước
Hoa tigôn của TTKH
Bài thơ thời đi học nhớ không em
Bài thơ đắng cay tuy điệu mà buồn
Nay đọc lại chẳng còn rơi nước mắt
Hoa tigôn như trái tim vỡ nát
Chết âm thầm dưới những bước chân quen.

Bao nhiêu kẻ đồng cảm với HSHTG như Lưu Quang Vũ, Đinh Tiến Luyện… mà có thơ. Thanh Châu “cảm” không được sao? Hay cảm hứng từ hoa Ti-Gôn như Thanh Châu, Khái Hưng cũng không được nốt? Khi Trịnh Công Sơn cảm hoa Quỳnh mà có “Chuyện đóa Quỳnh” thì phạm luật ư? Hoặc thi sĩ Pháp gốc Ban Lan, Guillaume Apollinaire, bạn thân của danh họa Picasso, cảm hoa Thạch Thảo mà viết: “L’Adieu-Lời vĩnh biệt” mà Phạm Duy phổ nhạc đổi thành“Mùa thu chết”: “Ta ngắt đi một cành hoa Thạch Thảo. Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi…”; hay hoa Sữa mùa thu thơ ngây trong thơ “Hoa Sữa” của Nguyễn Phan Hách (Hồng Đăng phổ nhạc), hoa Sữa ngậm ngùi trong “Chia tay người Hà Nội” của Bùi Thanh Tuấn…

- Thế Nhật cho rằng: “Thanh Châu tự cho mình là người có quyền được nắm giữ hầu hết bí mật thơ T.T.KH, nên ông đặt câu hỏi với ông Mã Giang Lân tuyển in vào tập THƠ THÂM TÂM mà không đề năm tháng, xuất xứ. Thanh Châu phủ nhận một cách ẩn ý về bài này, lẫn cả bài: Các anh mà ông cho là thơ dỏm của Thâm Tâm. Ông lại cất công tìm gặp ông Phạm Quang Hòa… Thanh Châu không những được nghe băng Cassette ghi onâm giọng một bà kiều bào ở Paris – ông còn được nghe một băng khác, lần này đặc biệt hơn: thơ T.T.KH chính T.T.KH ngâm! Quả là một tâm hồn đồng điệu, đồng cảm, đồng tình không ai hơn được! Sám hối tận nửa đêm tận cùng yêu Bóng người ngày xưa T.T.KH!” (sđd tr 72).

Nhưng Thanh Châu trong “Thơ T.T.KH ở nước ngoài” chỉ ghi: “Năm 1989, ông Lê Trường, kỹ sư nông nghiệp sang làm chuyên gia cho Algérie, khi về nước qua Paris, được một Việt kiều tặng một băng cassette, ghi âm thơ T.T.KH. do chính người đó ngâm. Bà Việt Kiều đó, trước kia ở Hà Nội, làm công tác nghệ thuật, rất mê thơ T.T.KH. Vì có giọng ngâm tốt cho nên bà đã dạy cho nhiều bà con bên đó ngâm thơ. Băng cassette này ghi âm bài Hai sắc hoa ti-gôn nhưng người ngâm lại bắt đầu từ câu Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn đến câu Trong một ngày vui pháo nhuộm đường thì lại bắt sang bài Bài thơ cuối cùng của T.T.Kh. Người ngâm bỏ hai đoạn đầu (8 câu) mà ngâm từ câu: “Từ đấy thu rồi thu lại thu” cho đến câu “Tựa trái tim phai, tựa máu hồng” là hết bài. Người nghe nếu không nắm được thơ T.T.Kh. thì rất có thể nhầm đó là cùng một bài. Có lẽ người ngâm nhớ lẫn lộn nên đã để xảy ra tình trạng đó chăng? Nhất là trong bài được ghi âm còn có một số câu không đúng với nguyên tắc nếu có dịp thì nên xóa đi ngâm lại cho đúng. Chúng tôi còn được biết thêm, ông Trần Trịnh đã phổ nhạc bài “Hai sắc hoa ti-gôn” nhạc tango). Bài nhạc có lời do cô Thu Hương hát. Bài hát này cũng được những người di tản mang theo ra nước ngoài.

Thế là thơ của T.T.Kh. không có cánh mà đã bay tới nhiều phương trời.

T.C” (Thế Nhật sđd tr 105-106).

Thanh Châu viết rõ: Ông Lê Trường: “được một Việt kiều tặng một băng cassette, ghi âm thơ T.T.Kh. do chính người đó ngâm. Bà Việt Kiều đó, trước kia ở Hà Nội, làm công tác nghệ thuật, rất mê thơ T.T.Kh. Vì có giọng ngâm tốt cho nên bà đã dạy cho nhiều bà con bên đó ngâm thơ”. Tức là bà Việt Kiều đó có giọng ngâm tốt đã đích thân ngâm thơ T.T.Kh tặng ông Lê Trường chứ nào có phải như Thế Nhật “xỉn” hay sao mà cho “chính T.T.KH ngâm”? Nhầm chữ. Nhầm nghĩa. Nhầm người! Thế Nhật nhầm Vân Nương là T.T.Kh như thế qua câu của Vân Nương trong thư gởi Thư Linh: “Nếu thật tôi là T.T.KH thì có gì là xấu…” để làm câu trả lời “vì sao lại vẫn tin như vậy” trong “Lời cuối sách…”. Vân Nương dùng: “Nếu thật tôi là T.T.KH” là câu giả định để phủ định “Nhưng thật tôi không là T.T.Kh” chứ nào Vân Nương đã nhận?

MGL trích thơ không ghi rõ nguồn thì Thanh Châu thắc mắc cũng như Hoàng Tiến, như chúng ta đặt câu hỏi vậy. Vả lại, Thanh Châu thắc mắc thơ TT chứ có thắc mắc thơ T.T.Kh đâu?

Thế Nhật kết luận cho sự đồng cảm từ HSHTG của T.T.Kh mà Thanh Châu viết “Những cánh hoa tim”: “Kể ra, kịch tác gia Thanh Châu đạo diễn màn kịch thơ câm T.T.KH thâm thúy, cao siêu thật!” (tr 52). Thật ra, Thanh Châu nào có biết chi đâu! Nếu biết, ông mà không “tóm được nó”, ông… chết liền! Bây giờ, ông chưa thể… tóm đứa nào viết… bậy thì ông… chết thiệt!

Chẳng biết, nói bậy… cà lăm. Không nói, ai có bảo câm bao giờ!

Về “nhân chứng” Đ.T.L:

- Thế Nhật đã tin tuyệt đối: “bà đã vui lòng kể cho tôi nghe những bí ẩn đời T.T.KH do chính T.T.KH kể trước khi xuất cảnh sang Pháp. Qua nhiều buổi, một lần tôi khuyên bà nên viết thành một bài thơ để cho đời biết được nghi án này trở thành hiện thực. Bà đồng ý và viết bài Hoa Tim – T.T.KH Phương Xa… hé mở cánh cửa, đủ để rọi sáng những mờ ảo về thân thế T.T.KH” (tr 43).

Chúng ta thấy rằng thật chưa thể tin hết TT thố lộ với bao nhiêu người về mình là T.T.Kh. Nhưng thật sự chẳng bao giờ tin, T.T.Kh là Trần Thị Vân Chung. Có gan câm suốt bao nhiêu thời gian “chín búa” sao còn “búa” cuối cùng lại tự… đập vào… đầu mình? Nếu chuyện long trời lở đất như miếng mồi ngon dụ cọp mà đi kể cho thiên hạ nghe rồi dặn đừng kể cho ai, đừng nói cho ai biết. Có nghĩa là… nói đi, cầm loa phóng thanh mà loa khắp thế giới dùm tôi! Tâm lý con người đục ngầu chính là sự tò mò, tọc mạch, thóc mách. Chuyện một cô gái mới có bồ sang tai kẻ khác thì là có mang, sang tiếp vài người nữa thì đẻ con ba đầu sáu tai mười hai con mắt… Không ai nghe tin “giựt gân” mà “im như thóc” bao giờ. Miệng mồm không ngứa ngáy, xin… cùi! Bản thân Thế Nhật chỉ mới nghe Đ.T.L hé miệng thì đã vội vàng “qua nhiều buổi… khuyên bà nên viết”. Khi bà ta “rặn” ra bài “Hoa tim” vô hồn, vô nghĩa (chưa nói là đạo thơ) năm 1994 thì Thế Nhật lại vội vàng “làm bà mụ” mà đưa lên làm “vật chứng” bằng cách trích nội dung thơ “Hoa tim” vào sách minh chứng cho cuộc tình T.T.Kh đã 57 năm. Nếu bà Đ.T.L mà làm bài “Hoa tim” ngay lúc ấy thì bài thơ của bà có giá trị tư liệu văn học chút ít rồi!

Với HSHTG, ai mà chẳng lồng nhân vật hay cả mình vào được. Ví dụ: “Bà X, Y, Z hồi còn đi học có yêu một anh chàng. Sau đó, duyên nợ không thành, bà phải lên xe bông về nhà chồng. Bà vẫn thương người đó lắm: “Nếu biết rằng tôi đã có chồng. Trời ơi, người ấy có buồn không”? Không được sao?

Thế Nhật nhầm lẫn thời gian khi đem 1954 gắn với hai bài viết của Thanh Châu năm 1937-1939: “Năm 1954, chàng trở về Hà Nội thì nàng đã cùng gia đình vào Nam từ lâu… Tác giả Hoa ti-gôn, nhân vật là họa sĩ Lê Chất (1937) và Những cánh hoa tim vẫn lại là họa sĩ Lê (1939). Nhân vật trong truyện sau, Lê không lấy vợ, lại chỉ ngâm thơ T.T.KH nhiều lần, rất nhiều lần của nhiều đoạn thơ khác nhau, ghi lại cảm nghĩ khác nhau của T.T.KH…” (tr 53). Thế nhưng, ai đọc “Những cánh hoa tim” của Thanh Châu mà không hiểu là Thanh Châu chỉ hồi ức lại nguồn cảm hứng sáng tác truyện ngắn “Hoa Ti-Gôn” của ông mà thôi! Làm gì có chuyện như Thế Nhật suy diễn lạc đề như trên. Thanh Châu sau khi hồi ức thì ghi tâm sự rõ ràng: “Tôi đọc bài thơ đầu của T.T.Kh. với một sự cảm động thực thà. Tôi cho là những lời thơ xuất tự tâm hồn, giản dị nhẹ nhàng và chân thật ấy còn đẹp hơn cả những lời thơ đẹp nhất của các Desbordes Valmores hay Rosemonde Gérard của Pháp nữa. Và tôi thấy chán cả cái nghề viết tiểu thuyết…Tôi đã nghe bàn tán nhiều về T.T.KH. Người ta tò mò muốn biết rõ đời riêng của người đàn bà có cái tâm sự kia… Tôi thì tôi chưa được biết mặt, biết tên thực của T.Tkh… Tôi cầu chẳng bao giờ gặp mặt T.T.Kh. để được yêu thơ hơn. Và tôi lại có ý muốn lạ lùng này, đừng bao giờ người đàn bà ấy viết thêm một bài thơ nào nữa. Tôi chỉ sợ những bài thơ sau sẽ làm giảm bớt giá trị của bà đi… ” (Về những kỷ niệm quê hương, sđd tr 167-168). Với những lời cảm nghĩ thật thà như thế, trong sạch như thế, can cớ chi mà Thế Nhật lại cứ khăng khăng: Ông biết T.T.KH là ai mà không dám nói, không dám công khai…

Nỗi bức xúc của Thanh Châu cũng vì yêu vì thơ T.T.Kh. Người ta sợ thần tượng của mình sụp đổ khi thấy mặt nhau là chuyện thường. Mỵ Nương mê tiếng sáo Trương Chi mà bệnh tương tư. Gặp nhau rồi thì… giấc vàng sực tỉnh! Chẳng thà không gặp thì hay! Chàng Chi xấu xí chua cay một mình! Thanh Châu nếu biết T.T.Kh chính là Vân Chung, người yêu cũ thì việc gì có sự lo ngại và phập phồng như thế? Ông đánh lừa độc giả từ năm 1939 ư?

+ Thế Nhật thật sự quá tin người:

Lẽ ra, Thế Nhật phải đặt một dấu hỏi ngay khi nghe bà Đ.T.L kể về T.T.Kh chứ? Tại sao T.T.Kh tự dưng kể cho bà trước khi đi Pháp? Một tâm sự trùng trùng trút vào người bạn chẳng thân thiết thì có khác gì như cá trê trút ống! Bà Đ.T.L hứa với T.T.Kh là chỉ kể ra khi bà ta chết! TT cũng bảo Hồ Thông như vậy. Những người dựng chuyện sao lại giống nhau từng chi tiết như người mắc bệnh “Đao” (Down sydrome)?

Bà Đ.T.L không giữ lời hứa mà “bép xép” với Thế Nhật. Thế Nhật không giữ lời hứa với Đ.T.L “Chính tôi đã suy nghĩ rất nhiều, khi không thể làm vừa lòng bà Đ.T.L, để công bố về T.T.KH, hình ảnh, tiểu sử, cả tên thật của người yêu T.T.KH… ” (tr 44) để phát ra cuốn sách mà “phản bác chiếm 4/5″ như Thế Phong đã trung thực trả lời độc giả VU THANH HIEN trên newvietart.com.

- Đánh mất chữ “TÍN”:

Ta thấy chưa nói đến đúng sai nhưng làm người phải luôn giữ chữ TÍN. Chữ Tín là một trong 5 giáo đức (Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín) truyền thống nhân văn của người Việt Nam. Nếu một người vì lợi ích cá nhân, bán rẻ bạn bè, bán rẻ mọi thứ thiêng liêng thì có còn là Người hay không? Dân gian đã đúc kết thành câu: “Chim khôn tìm cây mà đậu. Người khôn chọn chúa mà thờ. Người khôn chọn bạn mà chơi“. T.T.Kh – Vân Chung quả thật “có mắt không ngươi” (Nhãn mục vô châu) mới chọn bà Đ.T.L để mà trút bầu tâm sự! “Mã tầm Mã. Ngưu tầm Ngưu”, bà Đ.T.L mới chọn Thế Nhật mà… khơi bầu dục vọng của Thế Nhật – chữ dục vọng mà Tạ Tỵ dùng cho Thế Phong trong bài: “Thế Phong và cơn mê dục vọng” (vantuyen.net). Thế Phong cũng là người viết chính cho cuốn “T.T.KH. Nàng là ai?” như Thế Phong trả lời độc giả: “1) Hai cuon sach qua hai lan xuat ban chi la mot. Lan thu nhat in vao 1994, anh Tran Nhat Thu (nguoi viet hai chuong: “Buc thu ngo”& Dan nhap”, con la chu bien va an loat). 2) Lan tai ban vao 2001, tren Giay phep trich ngang xuat ban so 1207/CXB/13/10/2001, o muc tac gia co ghi: The Phong(dong 1), The Nhat(dong 2)…” (web đd). Khi tác phẩm đồng tác giả mà không ghi phần nào ai viết, cuốn sách được khen thì khen chung, bị chửi cũng không riêng ai. Trường hợp cuốn “Lí luận văn học” (Nxb GD – 2006) do Phương Lựu chủ biên cùng 5 tác giả khác. Chương nào con cũng mồ côi cha mẹ sao gọi là “khoa học”? Ai viết phần nào thì có phần người đó chứ. Không lẽ 12 cánh tay viết xuống cùng một lúc, cùng một từ, cũng một câu, một đoạn, một chương?! Tài thánh tập hai!

Thư Linh: “Còn chỗ chị và người ấy gặp nhau; em chỉ thuật là đã khóc”. Tức là bà này đã kể lại cho người khác nghe dù trước đó đã hứa “em bảo rảnh sẽ viết về chị. Chị bảo: Thư Linh đừng viết, anh Chấn hay ghen lắm nên em hứa sẽ không viết“. Coi như bà “không viết” mà chỉ “kể” bằng ”Hoa tim” thôi! Hà! Kể hay nói bằng cách nào cũng là “phản”.

Thế Nhật: “Khi tôi báo tin cho bà Đ.T.L biết là bà giữ chữ lời hứa với T.T.KH cần phải giữ trọn chữ tín – nhưng đối với tôi – tôi chỉ biết mà không quen T.T.KH như bà Đ.T.L với T.T.KH là quen biết lâu đời; vì đã quen, tất nhiên là đã biết nhưng biết thông thường chưa hẳn không quen. Một điều nữa đây là cuộc trả giá đối với bản thân chúng tôi, đã từng công bố sự nhầm lẫn của mình khi viết sách ghép THÂM TÂM và T.T.KH. vào làm nột – bây giờ đây, nếu đưa ra ánh sáng cuộc chơi tình thơ đẹp ão não, đau thương đậm đà từng làm đổ bao nước mắt, khiến bao con tim rung động với mối tình chân thơ T.T.KH để chúng ta cùng biết rõ T.T.KH là ai, và ai là người tình thật của T.T.KH – đó là chúng tôi đã tự tha thứ cho sự lầm lẫn cá nhân mình xưa kia… “.

Tức là bà Thư Linh quen T.T. Kh lâu năm thì bà giữ lời hứa mặc bà. Tôi chỉ biết mà không quen T.T.Kh thì tôi tất phải có gì mà giữ lời! (cái câu “vì đã quen, tất nhiên là đã biết nhưng biết thông thường chưa hẳn không quen” không hiểu như thế nào?) Thế Nhật bán cái cho Thư Linh. Thế Nhật vin vào sự nhầm lẫn trước đó của mình nên mượn điều phản lại lời hứa mà “tự tha thứ cho mình“. Công bố mình đã tìm ra T.T.KH là ai cho độc giả biết (dù trật hất đi nữa), Thế Nhật coi như “lấy công chuộc tội”?!

Đây là một quan niệm chưa chín. Chúng ta là người trần, mắt thịt sao không có lúc sai lầm? Nếu những “khai quốc công thần” không sai lầm thì chẳng bao giờ bị cái cảnh “Điểu tận cung tàn”! Những nhà bác học còn sai lầm trong nghiên cứu khoa học nữa là chúng ta. Ngày trước, giáo hội La Mã tin học thuyết “Trái đất là trung tâm vũ trụ” mà bỏ tù, đánh đập nhà thiên văn học, vật lý học người Italia là Galile. 300 năm sau, mới công khai Galile với thuyết “Mặt trời quay, trái đất cũng quay” là đúng!

Stephen Hawking nhà thiên văn, vật lý học Anh tàn tật đã tuyên bố trước đám đông: Sự nghiên cứu về Hố đen (Black hole) dùng định lý Gauss- Bonnet để chứng minh sự kiện của một hình cầu bốn chiều của hố đen (có thể nuốt tất cả các vật thể gần nó) đã thất bại. Nào có ai chê bai? Tự nhận khuyết điểm, tự nhận thất bại là nấc thang cho ta bước lên thành công và khẳng định giá trị thật của con người chúng ta. Không ai khen kẻ thắng huênh hoang và chẳng ai chê người thất bại vì khả năng, vì thời cuộc!

Thế Nhật đã không lấy sự nhầm lẫn (theo Thế Nhật) để khỏi nhầm lẫn tiếp mà Thế Nhật lại đứng trên vai người khác, đạp chữ Tín xuống để đạt mục đích của mình. Người cho mượn vai chịu không nổi bước chân phàm nhân, ngã kềnh. Kẻ mượn vai chưa với được trời đã té… chỗng gọng! “Giàn xiêu, bí đổ” chính là đây!

Phản lại chữ Tín, con người phản bội lại nhân cách làm người của chính mình. Chúng ta dù có giải thích, ngụy biện với cái “lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” và với bất kỳ mục đích nào của cái gọi là chính nghĩa hay phi nghĩa thì kẻ phản bội bằng hình thức nào cũng như nhau! Điều này, ta có thể thấy những người bạn nối khố của TT, dù có biết gì thì họ vẫn “im lặng là vàng” cả khi TT mất vào năm 1950. Sau và trước thời gian này, họ chẳng “rỉ tai” người khác như kiểu “thêm mắm, thêm muối cho vừa miệng tôi” như bà Đ.T.L. Thân đàn bà từng bị thế gian cho rằng “nhiều chuyện”. Quả đúng thật với bà Đ.T.L này!

+ Bức thư của Thư Linh Đỗ Thị Lạc (Đ.T.L):

Ta hãy đọc bức thư của bà Thư Linh Đỗ Thị Lạc từ Sài Gòn gởi cho bà Trần Thị Vân Chung – T.T.KH bị “ép”: “Sài Gòn, ngày 20-9-1994

Chị Vân Nương thân mến, em in xong tác phẩm Những dòng thơ hoa chưa kịp tặng chị thì được anh Thế Phong và Trần Nhật Thu đem tới tặng tập T.T.Kh nàng là ai? Em giở ra đọc mới hay: chỉ vì coi bài thơ Hoa tim (antigone) trong tập Những dòng thơ hoa mà ra chuyện! Em xin chị đừng buồn nhé! Em xin chị bình tĩnh đọc lại những diễn biến vì sao em nói ra T.T.Kh là ai? Sau khi ở nước ngoài về, em có ý định ở lại nước nhà; bạn bè hay lui tới tụ họp, nói chuyện văn chương. Hôm đó có anh chị Như Hiên – Thanh Vân, Thế Phong, Quốc Văn và một vị nào đó nữa. Em nghe anh Thanh Vân nhắc tới T.T.Kh rằng: anh đã tới thăm tại nhà, khi nghe ai đó hỏi ‘Nay T.T.Kh còn trẻ không?’ anh Thanh Vân nói ‘Già và không còn đẹp nữa, thơ thì xuống lắm, xem rồi không còn hay’. Em thì chị lạ gì rất thẳng thắn, hơn nữa T.T.Kh em coi là thần tượng nên em nhíu mày nói: “Có thể T.T.Kh anh quen là giả đó vì tôi cũng được biết T.T.Kh, thơ nay vẫn tuyệt vời và đẹp lắm!’. Anh Thanh Vân cứ nhất định người anh quen là T.T.Kh thật và hỏi em “Người chị biết là ai?’ Em bực bội nói là: ‘Chị Vân Nương chứ ai!’, thế rồi câu chuyện đứt quãng vì có người mới tới, Thanh Vân và Như Hiên ra về. Đêm hôm đó em ngồi viết chuyện tình cảm của T.T.Kh với tựa đề Hoa tim (antigone) và chú thích ‘Gửi người chị thơ phương xa tôi vô cùng mến yêu’, ý em gửi tặng chính chị vì em chưa thể quên được năm anh Chấn chưa đi cải tạo về, một chiều mùa thu chị lên nhà chơi… em cùng chị về sắc thái của các ca sĩ… Khi nhắc tới ba bài thơ về Hai sắc hoa ti gôn, em nhớ trước đây chị bảo em chị ở Thanh Hóa. Chị nhớ có lần em đã hỏi một chị bạn cũng ở Thanh Hóa có biết T.T.Kh là ai không? Chị ấy bảo không biết nhưng nghe người ở Thanh đồn tên cô ta là Chung đẹp lắm và giỏi thơ, nhưng đã lấy một ông quan huyện. Lúc đó em mới hỏi: Tên Vân Nương là bút hiệu hay tên chị? Chị bảo tên mình là Trần Thị Vân Chung. Chị có nhớ em nói ngay: “Thì ra T.T.Kh là chị rồi!”. Chị cười: Ai nói với Thư Linh thế? Em trả lời có người nói lâu rồi, nhưng sao nghe nhiều bài, nào Nguyễn Bính, nào Thâm Tâm nhận… vậy là ai? Chị lại cười: ‘Họ nói bậy thôi!’ Em hỏi: ‘Chị quen anh Chấn lâu hay mau rồi mới cưới?’ Chị thuật là do anh Chấn về Thanh thăm mẹ, qua hiệu chụp hình thấy ảnh chị, anh Chấn tìm bạn dẫn đến tiệm hình hỏi: “Có biết người này là ai không?’ Người đó mách anh Chấn nhà chị, sau đó gia đình đi hỏi, hai bác bằng lòng gả chị cho anh Chấn. Chị còn cho em biết: cách đây ít lâu anh bạn cũ ấy vào Nam tìm chị mãi không thấy đâu, sau tìm được nhà chị Minh, chị Minh sang kêu chị (lúc đó anh Chấn còn bị giữ ở ngoài Bắc). Chị sang tới nơi, khi gặp nhau, không hiểu sao chị khóc, anh bạn xưa có nói rằng tìm mãi không được tin tức chị, nhiều khi lên cả xe bus tìm chị nữa, em bảo rảnh sẽ viết về chị. Chị bảo: Thư Linh đừng viết, anh Chấn hay ghen lắm nên em hứa sẽ không viết. Có những mẩu chuyện rời rạc như anh Thế Phong hỏi: ‘Chắc khi xưa chị Vân Nương đẹp lắm?’ Em trả lời: ‘Nếu không đẹp sao anh Chấn chỉ thấy hình đã mê quyết tìm cho ra xin cưới!’. Em đâu dè anh Thế Phong và Trần Nhật Thu viết thành tác phẩm T.T.Kh nàng là ai? căn cứ vào bài thơ Hoa tim của em. Có nhiều chỗ họ hư cấu như nhắc thời gian đó chị ở nhà bà Mộng Tuyết. Còn chỗ chị và người ấy gặp nhau; em chỉ thuật là đã khóc, vậy mà họ dám nói tầm bậy là đã… Em và chị đã ra ngoại quốc thì bạn bè thân ở xa gặp ôm hôn để tỏ lòng mến thương cũng chuyện thường thôi, nhưng trong bài thơ em đâu có nói ôm hôn, nên em phone đòi cải chính lại thì sách đã in mất rồi! Mấy đêm nay em thức trắng bực mình giận anh Thế Phong đã không bò những dòng vớ vẩn đó, em tin chị cũng sẽ bực mình và giận em. Thật ra những bài thơ thần thánh của chị khi xưa ai cũng tôn kính coi là một áng văn học, em cũng mong mọi người đọc sẽ đều kính ngưỡng chị. Nếu chị không giận trách em thì em mong chị làm lơ như không cần tới vụ này để văn học sử ghi tên Vân Nương bằng những nét son thắm làm rạng rỡ cho phụ nữ nước Việt Nam.

Hôm qua em gặp chị Như Hiên, chị tỏ ra bất bình về chuyện này và nói sẽ gửi đăng bài một tờ báo lá cải nào đó, phóng tác từ tập T.T.Kh nàng là ai? của Thế Nhật để gửi sang bắt chị phải cải chính. Như Hiên còn nói chỉ có Như Hiên mới có quyền được nói về chị mà thôi. Em hiểu Như Hiên; tức vì chị ở trong Quỳnh Dao sao chị không tâm sự với chị ấy mà em là người ngoài Quỳnh Dao lại được biết! Đời có những người quen nhau mấy chục năm mà vẫn không thể coi nhau tri kỷ được. Em không biết tình chị đối với em từ nay như thế nào? Có giảm đi không? Nhưng riêng em lúc nào cũng kính yêu chị và coi chị là thần tượng của lòng em, dù vì chuyện này mà chị có giận em thì em cũng xin tạ lỗi cùng chị. Em tin rằng các cháu đã sống với văn minh Âu Tây sẽ hiểu và luôn kính trọng yêu quý mẹ. Người con gái lớn lên khi gặp người hợp ý tâm đầu, yêu nhau trong hoàn cảnh phải xa nhau, mối tình tuổi thơ thật trong trắng. Khi lấy chồng chị vẫn yêu chồng, yêu con, không hề có điều khuất tất thì mối tình đó rất cao thượng có chi đâu mà phải cải chính, làm như chị không hay biết, đó là chị đã thấu chữ vô thường vậy, và như thế là chị đã không giận em, người bạn nhỏ đã hết lòng yêu mến chị. Chĩ Hỷ Khương rất cảm thông với em về chuyện này, riêng Như Hiên tỏ vẻ khó chịu nói: ‘Nếu không phải là em thì chị ấy đã viết báo cải chính rồi’. Em thì chị lạ gì em bảo: ‘Cứ viết để em cũng sẽ viết theo những gì em đã biết’. Nếu vụ này rùm beng lên thì âu cũng là do bài thơ Hoa tim mà ra, đúng là nghiệp thơ của em chị ạ.

Một lần nữa em mong chị đọc kỹ cả hai tập thơ và hiểu cho em rằng vẫn luôn tôn trọng chị chứ không có ý khác và rất mong chị tĩnh tâm, suy nghĩ xem lời em trình bày có đáng để chị dịu đi những bực dọc mà có người đã mách, đã pousser chị làm to chuyện? Dù chị có cải chính thì ai cũng hiểu cả rồi! Nếu vụ này chị không phản đối em thì xin chị một đề nghị, nhưng còn tùy thuộc thái độ đại lượng hay giận trách của chị. Vì xem kỹ tập sách T.T.Kh nàng là ai? em thấy tác giả rất tôn trọng và kính mộ chị – ngoài một vài hư cấu.

Một lần nữa em xin chị đừng buồn em, em không muốn chúng ta mất nhau! Cầu chúc chị sức khỏe, thâm tâm lạc trong ơn Đức phật từ bi.

Em yêu chị

THƯ LINH”

Đọc thư bà Thư Linh, chúng at có thấy chút “thân thiện” nào từ những dòng bà viết? Những lời trong thư bà vừa nhận lỗi vừa buộc, vừa đổ thừa, vừa ca cuốn sách, vừa ca cả bài thơ của bà, vừa ép Trần Thị Vân Chung phải im luôn đi nếu không thì tùm lum chuyện không hay.

- Thứ nhất: Vì đâu Thế Nhật có cuốn “T.T.Kh – nàng là ai?”?

Thư Linh: Cho rằng chính Thế Phong và Trần Đình Thu: Chỉ vì coi bài thơ Hoa tim (antigone) trong tập Những dòng thơ hoa mà ra chuyện!”. Tức là bà Thư Linh chẳng có kể gì.

Thế Nhật: Bà vui lòng kể cho tôi nghe những bí ẩn đời T.TKH do chính T.TKH. kể trước khi xuất cảnh sang Pháp”.

Tức là bà Thư Linh đã kể tùm lum.

- Thứ hai: Bài Hoa tim viết với nguyên nhân nào?

Thư Linh: “Anh Thanh Vân cứ nhất định người anh quen là T.T.Kh thật và hỏi em “Người chị biết là ai?’ Em bực bội nói là: ‘Chị Vân Nương chứ ai!’, thế rồi câu chuyện đứt quãng vì có người mới tới, Thanh Vân và Như Hiên ra về. Đêm hôm đó em ngồi viết chuyện tình cảm của T.T.Kh với tựa đề Hoa tim (antigone) và chú thích ‘Gửi người chị thơ phương xa tôi vô cùng mến yêu’…”. Nghĩa là bà Thư Linh làm vì bực cuộc đối thoại trong buổi hội họp chứ không phải do Thế Phong “đặt hàng”.

Thế Nhật: “Qua nhiều buổi, một lần tôi khuyên bà nên viết thành một bài thơ để cho người đời biết được nghi án này trở thành hiện tượng văn học có thực. Bà đồng ý và viết bài thơ Hoa Tim – T.T.KH Phương Xa…”. Tức là bà Thư Linh đã chịu viết theo “đơn đặt hàng” của Thế Nhật. Sao hai lời thế này?

- Vụ T.T.KH là Vân Nương ai từng được biết?

Thư Linh: Chị nhớ có lần em đã hỏi một chị bạn cũng ở Thanh Hóa có biết T.T.Kh là ai không? Chị ấy bảo không biết nhưng nghe người ở Thanh đồn tên cô ta là Chung đẹp lắm và giỏi thơ, nhưng đã lấy một ông quan huyện. Lúc đó em mới hỏi: Tên Vân Nương là bút hiệu hay tên chị? Chị bảo tên mình là Trần Thị Vân Chung. Chị có nhớ em nói ngay: ‘Thì ra T.T.Kh là chị rồi!…”.

Tức là có người biết từ lâu thì chuyện này còn gì mà bí mật nữa! Vậy, người chị bạn bà Thư Linh kể, bà Thư Linh phải biết tên. Nếu bà Thư Linh giữ chữ Tín với bà chị bạn thì sao lại phun ra khai khấu cho Vân Nương hết trơn? Nếu bà Thư Linh không chịu nói tên bà chị bạn này ra thì bà Thư Linh bịa đặt theo “đề cương tìm kiếm T.T.Kh” của bà cùng Thế Nhật có từ lâu! Nếu lời đồn đã có người tên Chung ở Thanh Hóa là T.T.Kh từ trước thì Thanh Hóa cũng bị… bom tò mò, mìn tọc mạch của thiên hạ đào bới T.T.Kh banh chành từ đời nào, kiếp nào!

Thế Nhật: “Chỉ có Thanh Châu mới biết rất rõ T.T.KH là ai? Vì ai? mà có ‘Hai sắc hoa Ti-gôn”. Nghĩa là Thế Nhật khẳng định không có ai biết T.T.KH chính là Trần Thị Vân Chung? Vậy mà bà Thư Linh lại nói có người biết lâu rồi? Bà Thư Linh đã “đá giò lái” Thế Nhật hiệp mở màng! Hàng “Vân Chung” là T.T.Kh đâu còn là “hàng độc” riêng của Thế Nhật nữa đâu!

- Thế Nhật có hư cấu bậy trong cuốn sách mình không?

Thư Linh: “Em đâu dè anh Thế Phong và Trần Nhật Thu viết thành tác phẩm T.T.Kh nàng là ai? căn cứ vào bài thơ Hoa tim của em. Có nhiều chỗ họ hư cấu như nhắc thời gian đó chị ở nhà bà Mộng Tuyết. Còn chỗ chị và người ấy gặp nhau; em chỉ thuật là đã khóc, vậy mà họ dám nói tầm bậy là đã… Em và chị đã ra ngoại quốc thì bạn bè thân ở xa gặp ôm hôn để tỏ lòng mến thương cũng chuyện thường thôi, nhưng trong bài thơ em đâu có nói ôm hôn, nên em phone đòi cải chính lại thì sách đã in mất rồi! Mấy đêm nay em thức trắng bực mình giận anh Thế Phong đã không bò những dòng vớ vẩn đó”. Vân Nương đã chỉ ra 9 điểm sai cơn bản và vu khống phần trên).

Thế Nhật: (Ta xét về hư cấu cuộc gặp mặt của “đôi nhân tình”):

Với truyện ngắn chẳng có tên gọi, Thế Nhật đã quên thời gian khi cho nhân vật lịch sử văn học nhập cuộc. Thanh Châu chia tay T.T.Kh (gọi như vậy cho ngắn gọn theo sự gán ghép của Thế Nhật) năm 1934. Thanh Châu tìm kiếm T.T.Kh năm 1976. Họ xa nhau vị chi 42 năm. Họ không gặp nhau trong thời gian dài như vậy mà nhận ra ngay chẳng chút ngại ngùng, cũng hay! Chuyện Thanh Châu yêu T.T.Kh cả nhà Vân Nương ai cũng biết. Nhưng cô em gái T.T.Kh là Anh Minh cũng không nhận ra Thanh Châu là ai: “Khi bà Anh Minh ra gặp khách lạ, ông giới thiệu tên mình và nói thẳng cho cô em vợ ‘hờ’, ông cần gặp T.T.KH.”. Còn Vân Nương đã 42 năm chắc gì nhận ra Thanh Châu (ví dụ vậy đi), vậy mà khi mới gặp nhau thì đã “Thân hình nàng ngả về phía trước, lọt vào vòng tay khách trung niên”. Thanh Châu với: “Thế giới ấy chỉ còn hai người, họ không cần biết đến có ai xung quanh”. Tâm lý trang bị cho nhân vật còn yếu quá, gây bẽ bàng, phản tác dụng khi một tình yêu huyền thoại đẹp đẽ đã biến thành cảnh thèm khát xác thịt của hai nhân vật chính!

Trong thể tự sự, hư cấu nhân vật là bắt buộc nhưng hư cấu mức nào? Tự nhiên hay gượng ép? Truyện, Tiểu thuyết Việt Nam ta chuyên hư cấu nhân vật theo sự đạo diễn của mình mà không cho nhân vật được quay theo quỹ đạo tự nó phát sinh. Nếu dựng nhân vật nữ là người đàn bà (có chồng hay chưa) “tình cũ không rủ cũng tới” thì phải trang bị cho nhân vật nét tâm lý trước (thư từ, phôn… ) để nhân vật có thể trở lại kỷ niệm êm đềm nào đó trong quá khứ. Không có hồi ức kỷ niệm thì không thể có… vòng tay tình yêu cố nhân! Nếu có hồi ức kỷ niệm cũng phải tùy tuổi tác và hoàn cảnh. Thế Nhật cũng chưa thể cho nhân vật đả phá vào tường thành thời gian nhanh như “tiếng sét ái tình” của tuồi 20. Hỏng bét!

Nhà văn Léon Tostoi trong “Ana Karénine” đã cho nhân vật Ana bị “tiếng sét ái tình” từ chàng trai Vronsky tấn công ráo tiết nên cùng chàng yêu đương trên chiếc sô-pha nhà mình. Hay Colleen McCulough trong “The Thorn Birds” (Tiếng chim hót trong bụi mận gai – Những con chim ẩn mình chờ chết) đã để cho Meggie và cha Ralph gặp nhau ngoài đảo Matloch một cách hợp lý sau khi Meggie có chồng mà anh chồng cứ mê bạn trai bỏ nàng ở một mình mãi. Chúng ta đọc mà xúc cảm chân thành bởi vì nhà văn nước ngoài đã miêu tả rất có tình, có lý chứ không hời hợt “mở pha ăn tiền” như nhà… Drăng” chúng ta!

Yếu tố “Tự Nhiên” khi xây dựng nhân vật khác với miêu tả tự nhiên là một trong những nhân tố quyết định sự sống còn của tác phẩm. Khả năng này không phải nhà văn nào cũng có được nhưng mức độ thành công ít nhiều phải khác nhau khi nhà văn xây dựng nhân vật mình trên nền tảng có trách nhiệm ngòi bút.

Khi ta đọc “Dưới dàn hoa máu“, truyện ngắn về mối tình TT và Trần Thị Khánh của NTK trong cuốn “Về những kỷ niệm quê hương”, ta cũng thấy ông còn vướng víu ở thao tác tạo bối cảnh, ngôn ngữ đối thoại nhân vật chưa được tự nhiên. Thế nhưng, khi đặt truyện hư cấu của Thế Nhật với hư cấu Thanh Châu và T.T.KH?!, người ta sẽ thích “Dưới giàn hoa máu” hơn. Nội dung trong truyện NTK dàn dựng dựa trên những chi tiết có thực là chuyện tình TT họa sĩ với cô bé Khánh bên giàn hoa Ti-Gôn và ngày tan vỡ của họ cũng từ câu chuyện có thực.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét