Chuyên luận Nghiên cứu – Lý luận – Phê bình Văn học
Lời giới thiệu
Trong lịch sử văn học Việt Nam, hiếm có một tác giả tạo ra nhiều huyền hoặc, mâu thuẫn nghịch lý nhưng đầy hấp dẫn, lôi cuốn độc giả ngưỡng mộ, thêu dệt như trường hợp nhà thơ Thâm Tâm. Những hiểu biết mập mờ về Thâm Tâm và tác phẩm của ông trên những trang sách với nguồn tư liệu để đời bao dấu hỏi, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn khi đưa ra một tiêu chuẩn đánh giá thống nhất về vị trí của Thâm Tâm trong nền văn học. …
Gia tài văn học mà Thâm Tâm để lại cho hậu thế quả khiêm tốn về số lượng. Thế nhưng, số giấy mực mà người đời sau viết về ông thì lại cực kỳ đồ sộ. Chỉ riêng việc thống kê những huyền hoặc, thêu dệt mà các tác giả với chủ đề “Thâm Tâm – T.T.Kh” đã gởi vào cánh đồng văn học, là cả một công việc mất nhiều thời gian và công sức. Suốt hơn nửa thế kỷ qua, bí mật xung quanh Nhà thơ Thâm Tâm và Huyền thoại T.T.Kh vẫn là thách đố lớn và hấp dẫn nhất với các nhà phê bình cũng như bạn đọc yêu mến ông. Ngoài thi phẩm tuyệt bút “Tống biệt hành” đã, đang và sẽ không ngừng được khám phá giải mã, thống nhất về mặt văn bản mà còn nhiều bí ẩn liên quan đến ông, đến sự nghiệp sáng tác của ông. Những thắc mắc ấy, đến nay, chúng ta cũng chưa có lời giải cuối cùng, ngõ hầu làm sáng rõ một sự thật: ông có phải là tác giả của toàn bộ những bài thơ mang tên ông hay không? Ngược lại, nhiều bài thơ được ký tên người khác liệu có hoàn toàn không dính dáng đến ông? Những câu hỏi như vậy không dễ trả lời trong khi thời gian cứ mỗi ngày một trôi qua, người trong cuộc cũng đi về nơi xa khiến khả năng tiếp cận sự thật càng khó khăn gấp bội. Nhưng đấy mới chính là sự hấp dẫn của mọi đề tài nghiên cứu về Thâm Tâm mà cuốn sách chúng tôi sắp nói đến là một bằng chứng điển hình.
Trong số những bí mật xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của Thâm Tâm, bài thơ “Hai sắc hoa Ti-Gôn” gắn với ẩn danh T.T.Kh được coi như một huyền thoại văn chương. Nó là nguồn “cá tháng tư” cho những phỏng đoán, thêm thắt của người đời sau. Hàng trăm thắc mắc trong quá khứ vẫn còn treo lơ lửng thì hàng trăm câu hỏi hiện tại khác lại được đặt ra. Tựu trung lại, người ta muốn biết T.T.Kh là ai? Nam hay nữ? Nhân vật có thật hay được hư cấu? Nếu là thật thì cuộc đời sau đó của T.T.Kh ra sao? Nếu là nhân vật thật thì tại sao có quá nhiều mâu thuẫn trong chính tác phẩm của mình? Còn nếu là nhân vật hư cấu thì ai là tác giả? Tại sao phải lấy bút danh ký tự T.T.Kh? Với mục đích gì? Phần lớn những mối quan tâm ấy chỉ là do hiếu kỳ mà các tác giả đã viết về nó tưởng chừng như để thỏa mãn mọi thắc mắc độc giả, muốn giải mã đáp số văn học T.T.Kh mà nhiều khi chính mình cũng vô tình góp thêm vào sự thêu dệt khi những dẫn chứng đưa ra không khớp với thời gian, cá nhân được chỉ chứng lại xa lạ với người trong cuộc.
Nhưng với giới nghiên cứu văn học thì mối quan tâm không chỉ dừng lại ở đó. Ngoài vấn đề lịch sử, việc giải mã bí ẩn T.T.Kh còn là câu chuyện của khoa học: Khoa học văn bản, khoa học về thi pháp, khoa học về ảnh hưởng của những yếu tố ngoại cảnh đến tư tưởng và sự nghiệp của nhà văn và cuối cùng chính là khoa học về thân phận nghệ sĩ trước thời đại. Tức Thời đại – Con người – Tác phẩm không thể tách rời. Chính từ nhu cầu khách quan đó, hàng trăm công trình nghiên cứu về Thâm Tâm ra đời như đã nói ở phần trên. Mỗi công trình lại gây ra một cuộc tranh luận thú vị nhưng không tránh khỏi càng làm cho việc giải mã trở nên mù mờ. Giá trị văn học cũng như vị trí nhà thơ được truy tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2007 như Thâm Tâm càng ngày tầm thường hóa tiểu sử, dung tục hóa thi ca. Sở dĩ như vậy, trước hết là vì người viết chưa đưa ra đủ những căn cứ thuyết phục, thiếu tư liệu hoặc tư liệu bị làm sai lệch vì nhiều nguyên nhân… trong khi lại áp đặt nhiều ý kiến mang tính suy diễn chủ quan, thậm chí là võ đoán. Vì thế, hình như bạn đọc và giới nghiên cứu vẫn chờ có một tác phẩm công phu hơn, khoa học hơn, tâm huyết hơn, thuyết phục hơn để có thể yên tâm khép lại vấn đề. Chúng tôi hy vọng đang giới thiệu một công trình như vậy: “Huyền thoại hoa Ti-Gôn” của Ngọc Thiên Hoa.
Trên văn đàn, Ngọc Thiên Hoa được biết đến như một cây bút nữ đa tài trên nhiều lĩnh vực: Thơ, Truyện, Tiểu thuyết, Kiếm hiệp, Biên khảo, Lịch sử, Trào phúng, Truyện cười, Ngụ ngôn, Phê bình, Tiểu luận, Văn tế, Nhạc, Nhíếp ảnh, và cả Họa nữa. Tác phẩm phê bình, tiểu luận gần đây nhất: “Nhìn lại bến bờ I” khiến bạn đọc lại một phen ngạc nhiên không chỉ về khả năng làm việc của tác giả mà đáng nói hơn là về sự mới mẻ, táo bạo mà chị góp cho nền phê bình nước nhà. Cuốn tiểu luận lập tức nhận được nhiều ý kiến từ giới chuyên môn. Nhiều sự đánh giá khác nhau như bất cứ cuốn sách nào đáng đọc nhưng tựu chung lại, hầu hết đều ghi nhận Ngọc Thiên Hoa đã nỗ lực thổi một luồng sinh khí mới vào lĩnh vực nghiên cứu phê bình văn học khiến mảnh đất đang khô cằn, lắm đá sỏi này trở nên tươi tắn, hấp dẫn và đầy sức sống hơn.
Tiếp tục nỗ lực đáng quý đó chính là “Huyền thoại hoa Ti-Gôn” mà chúng tôi đang nói tới. Trước hết, chúng tôi ghi nhận đây là một trong những công trình nghiên cứu văn học đầy tính khoa học, tràn ấp tâm huyết và cực kỳ công phu của Ngọc Thiên Hoa. Có thể nói, đây cuốn sách công phu nhất trên nhiều phương diện nghiên cứu một tác giả nổi tiếng với “Tống biệt hành” và nghi án văn chương gắn với ẩn danh T.T.Kh. Điểm đáng chú ý nhất và có lẽ là điểm độc đáo của cuốn sách chính là cách thức sưu tầm và xử lý tư liệu lịch sử. Chỉ riêng về mặt cung cấp tư liệu, cuốn sách này là cuốn tư liệu tham khảo rất cần cho nhiều người. Nhưng không dừng lại ở đó, Ngọc Thiên Hoa đã qua mặt các đàn anh, cha chú đi trước khi thay vì liệt kê đơn thuần, chị đã làm một cuộc tổng sàng lọc, truy tầm gắt gao những sự thật bị khuất lấp bởi thời gian và bởi trăm ngàn lý do khác. Tác giả sử dụng mọi khả năng mình có để làm điều đó. Bạn đọc sẽ được chứng kiến một cuộc điều tra thú vị mà đối tượng bị điều tra là… lịch sử. Đó cũng là những trang hấp dẫn nhất của cuốn sách. (Ưu điểm dễ thấy nhất của cuốn sách này là sự hấp dẫn). Tại đó, tác giả muốn tìm sự thật về nguồn cung cấp thông tin của các cuốn sách bậc cha chú nên đã mạn phép yêu cầu các tác giả nên trình ra những tư liệu gốc. Tư liệu gốc theo yêu cầu của Ngọc Thiên Hoa không phải là mới mẻ nhưng rất cần thiết để minh chứng mọi sự việc liên quan tới cuộc đời tác giả, “khai sinh” một tác phẩm mà chúng ta thường hay bỏ qua hoặc ghi chú cho có là. Cách thức mà tác giả sử dụng để minh chứng khẳng định hoặc so sánh đối chiếu bằng văn bản để phủ định, thực sự đáng ghi nhận và đáng để bàn luận theo một chiều hướng chân thiện mỹ. Vì thế, có thể chỗ này, chỗ khác người đọc cảm thấy “tiếc rẻ” khi nhiều điều từng trở thành huyền thoại ngọt ngào nay đã không còn mờ ảo và được và phơi bày trên từng trang sách với các sự thật nhuốm màu cay đắng.
TTKh là ai? Tác giả thẳng thừng bác bỏ những giả thuyết liên quan đến một nhân vật phụ nữ có thật mà khẳng định nó là sản phẩm của một màn kịch đầy bi thương nhưng cũng rất thú vị, trong đó nhiều người thủ vai một người và một người thủ vai nhiều người. Nếu ý kiến của tác giả là đúng thì chúng ta cũng sẽ phải lên sân khấu văn học để nói lời kết, rằng kịch vừa là đời sống vừa không phải, vừa của trí tưởng tượng vừa không phải. Còn hơn cả một thách thức táo bạo nhất mà chỉ những người có bản lĩnh cao cường mới dám đặt ra và dám chơi tới cùng. Ngoài điều đó ra, cuốn sách cũng nỗ lực làm sáng tỏ nhiều chuyện, cung cấp cho độc giả một khối lượng tư liệu và kiến thức lịch sử, kiến thức văn chương đồ sộ, một bảng chỉ dẫn tỉ mỉ, đáng tin cậy nhằm đến những căn bản nhất của các sự kiện. Khi khép sách lại, bạn đọc không khỏi không ngậm ngùi trước lòng thương cảm, sự ngưỡng mộ của tác giả với một tài hoa thơ gặp nhiều lận đận trên đường đời và tình trường là Thâm Tâm. Ngọc Thiên Hoa đã cố gắng trả lại cho Thâm Tâm một gương mặt thật vốn vẫn mờ ảo trong huyền thoại và những uẩn khúc của thời gian. Đó vừa là mục đích xuất phát từ nhu cầu thẩm mỹ và lương tâm, vừa là đòi hỏi khắt khe của sự thật: Không thể cắt xén nhưng cũng không được tùy tiện thêm vào gia tài của một tác giả văn chương. Cả hai việc làm đó, theo Ngọc Thiên Hoa đều là sự xúc phạm không thiện chung với một tác giả, độc giả và đánh lừa lịch sử. Xuất phát từ mục đích cao cả trên, “Huyền thoại hoa Ti-Gôn” xứng đáng là một công trình khoa học đồ sộ và xứng đáng nhận được sự trân trọng, cũng bằng một tinh thần khoa học.
Về nguyên tắc tiếp nhận văn bản, chúng tôi đồng ý với tác giả giữ nguyên nội dung các bài, đoạn trích dẫn các tác giả khác trong cuốn sách này. Mọi sự góp ý chân thành của bạn đọc sẽ là nguồn động viên cho chúng tôi, cho tác giả tiếp tục xuất bản các cuốn khác trong thời gian tới mỗi ngày hoàn thiện hơn, xứng đáng là món ăn tinh thần cho bạn đọc trong những tháng ngày buồn vui ấm lạnh của cuộc đời.
Cuối cùng, chúng tôi xin được trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc: “Huyền thoại hoa Ti-Gôn”…
Hà Nội tháng 11- 2008
Ban biên tập
LỜI MỞ:
“Huyền thoại Hoa Ti-Gôn“: Huyền thoại về một loài hoa tim vỡ, tượng trưng cho những cuộc tình chia ly một đi không trở lại…
T.T.KH:
Cuốn “T.T.KH nàng là ai?” chỉ chứng Trần Thị Vân Chung là T.T.Kh của Thế Nhật được nhà xuất bản Văn Hóa – Thông Tin tung ra năm 1994 và 2001 chưa xoa dịu hết những bực bội cho người trong cuộc: Thanh Châu và Vân Nương thì cuốn “Giải mã nghi án văn học T.T.Kh” của Trần Đình Thu lại được nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn chắp cánh lên trời năm 2007.
Như ong mật thích đi tìm hương hoa, như tằm ăn dâu nhả tơ cho người lụa, như nắng nhạt nằm trên cây góa bụa, tôi là kẻ… chanh chua trong văn học bốn mùa. Mây trời ấm sợ tan trong cơn gió. Con mọt sách tôi nào biết chữ “no” gì!
Tôi lật lại giai đoạn 1937 – 1938 của T.T.Kh và Thâm Tâm. Thơ T.T.Kh có nhiều mâu thuẫn. Thơ Thâm Tâm đầy những nét ngờ. Tôi lạn qua cuộc đời Thâm Tâm và nhóm bạn “Áo bào gốc liễu” để nhận dạng tiếng thơ. Tôi rà trong đám bạn bè Thâm Tâm để tìm ra thi pháp. Tôi mở sách Nguyễn Thạch Kiên. Ngút ngàn điều cần giải. Tôi lần từng trang hai cuốn sách Thế Nhật. Rừng tắt ánh mặt trời. Tôi tìm vào sách Trần Đình Thu. Âm u sương mù một cõi!
Tôi đọc những lá thư Trần Thị Vân Chung, tìm coi có chút gì là giải mã? Tôi đọc thư Thư Linh. Thư viết loanh quanh. Tôi lần vào chốn thơ Vân Nương, coi có gì ngờ để cho là y… Thị?
So sánh đã làm. Đối chiếu cũng xong. Dò tìm cũng khối. Liên lạc tùm lum. Mail đi tứ xứ…
T.T.Kh có phải là Trần Thị Vân Chung? Là ai nữa, cũng như bao huyền thoại, loài hoa Ti-Gôn là có thật trên đời!
THÂM TÂM – “TỐNG BIỆT HÀNH”:
Một bài thơ nhiều ẩn số văn học. Những ẩn số vô danh giải đến muôn đời!
Tôi tìm về dòng sông đưa tiễn người của Thâm Tâm. Nhận thấy người đi chẳng phải bạn chiến trường. “Ly khách” là ai? Bao người đã tưởng tượng? Người mẹ can trường, chồng vắng, đảm nuôi con. Tôi bàng hoàng trong một thoáng rưng rưng… Sự “dửng dưng” kia là quên đi dĩ vãng. Tôi chìm dưới hoàng hôn lãng đãng… Hoàng hôn Thâm Tâm “Hoàng hôn trong mắt trong”, cặp mắt vô hồn chẳng thể gởi phường… đực rựa. Thế là tôi đi nữa…
Tôi đi về quá khứ của Thâm Tâm với “chiều hôm trước” để biết nỗi buồn kia phát xuất tự lúc nào? Trời mùa thu có vô vàn cách giải. Có vô vàn kỷ niệm của thi ca. Tôi tìm về với một “sáng hôm nay” để nhận ra người ra đi, đó chính là… “người ấy“…
Tôi lội xuống đầm sen bao la để nhớ… “Trong đầm gì đẹp… “. Nét đẹp của sen vẹn toàn và rực rỡ. Thâm Tâm nỡ nào gán hai chị “già nua”! Trên trang giấy học trò, thầy vẫn dạy vu vơ… Hai người chị đến giờ sen “tàn tạ”!?
Thâm Tâm giấu nỗi lòng trong chiếc lá. Chị với “dòng lệ sót“, đã khuyên em… Người mẹ, người em, người chị của trang thơ. Là hư cấu cho người bao dấu hỏi? Tiễn lòng mình với bao nhiếu nhức nhối, với bao nhiêu kỷ niệm cũng đành thôi! Tôi suy nghĩ về “chiếc khăn tay” em gái. Nó đã hóa thành kỷ vật của người yêu? Thâm Tâm nỗi lòng đầy ấp với hai chiều. Người khó hiểu chỉ vì không chịu hiểu.
“Chiếc lá bay, là hạt bụi, hơi rượu say”. Những hóa thân khẽ khàng lăn theo bước. Những lắng động của một “chiều hôm trước“. Thành bạn đường “ly khách sáng hôm nay“…
Vậy ngày xưa, Thâm Tâm đã yêu ai? Nhiều cách diễn tầm thường thơ ẩn dụ. Những hóa thân đã tan vào sương núi. Nỗi lòng “chiều hôm trước” phải đành quên! Người ra đi là ai? Là ly khách? Ly khách là ai? “Ngươi” của “sáng hôm nay”. Không phải nhà thơ Lương Trúc - Phạm Quang Hòa. Cũng chẳng phải là tên Viễn nào như Ngọc Giao dệt tưởng…. Chỉ tiễn lòng đi mới hoàng hôn đầy mắt… Tiễn nỗi lòng mình, nhân vật chính… Thâm Tâm!
Thể Hành:
Tôi nhiều chuyện lật sách Đường Thi. So sánh Thể “Hành” có gì khác biệt? Chẳng có gì gọi là bí ẩn. Chỉ là khúc ca cuộc đời bằng chữ Hán mà thôi!
Tôi đi vào “Hành” của 19 nhà thơ. Đề tài “Tống biệt” với 64 nhà thơ khác…
Biển văn học thơ Đường, chao, bát ngát. Cánh diều tôi, gió sắp bạt rơi rồi!
Tự kỷ:
Con ong mật đã làm nên ổ mật. Tham lam cũng coi chừng… ong chích mà đau. Tôi giơ búa nhưng lòng không nỡ… giáng! Vườn văn học rộn ràng xấu, đẹp cũng là hoa. Ngẫm suy:
“Văn kỳ thanh, bất kỳ hình”
Nắng thu hé mở bình minh chút nào?
Chưa coi, ai biết ra sao
Ti-Gôn Huyền Thoại, mời vào… đọc chơi!
Tháng 10/2008
Ngọc Thiên Hoa
Một số từ viết tắt:
Tác giả: Thâm Tâm (TT), Trần Huyền Trân (THT), Nguyễn Bính (NB), Đinh Hùng (ĐH), Vũ Hoàng Chương (VHC), Hoài Thanh – Hoài Chân (HT – HC), Nguyễn Tấn Long (NTL), Nguyễn Đức Trọng (NĐT), Tôn Thảo Miên (TTM), Hà Bình Trị (HBT), Nguyễn Hữu Đảng (NHĐ), Trần Hữu Tá (THT), Mã Giang Lân (MGL), Trần Đình Sử (TĐS), Lê Tiến Dũng (LTD), Trần Đăng Xuyền (TĐX), Chu Văn Sơn (CVS), Vũ Quần Phương (VQP), Nguyễn Hưng Quốc (NHQ), Nguyễn Thạch Kiên (NTK), Trần Đình Thu (TĐT)…
Tác phẩm: Tống biệt hành (TBH), Hai sắc hoa Ti-Gôn (HSHTG), Bài thơ thứ nhất (BTTN), Bài thơ cuối cùng (BTCC), Đan áo cho chồng (ĐACC), Thi nhân Việt Nam (TNVN), Văn thi sĩ tiền chiến (VTSTC), Thi nhân Việt Nam hiện đại (TNVNHĐ), Việt Nam thi nhân tiền chiến (VNTNTC), Việt Nam thi nhân tiền chiến – toàn tập (VNTNTCTT), Về những kỷ niệm quê hương (VNKNQH)…
----
Đời có những điều trắc trở. Tình yêu có những ngã rẽ bất ngờ. Như thế là có những tình ca cho cuộc tình ở lại, cuộc tình đã đi xa. Bản ”Tình xa” của Trịnh Công Sơn với ”Ngày tháng nào đã ra đi… cuộc tình nào đã ra khơi…” đã là ngã rẽ bất ngờ đệm đàn cho một thi khúc ”Tống biệt hành” (TBH). TBH của TT cùng ”Hai sắc hoa Ti-Gôn” (HSHTG) của T.T. Kh đã trở thành huyền thoại trong văn học Việt Nam.
Bút danh T.T. Kh có liên quan đến TT. Đề cập TT là nói đến TBH. Cũng vậy, khi ta nhắc đến HSHTG là nghĩ đến T.T. Kh. Vậy, TBH với HSHTG… có liên quan gì qua từ mang tính cách ám thị ”Người, Người ấy” trong những thi phẩm đặc biệt này?
THÂM TÂM – NGUYỄN TUẤN TRÌNH
(1917 – 1950)
A. THỜI ĐẠI – CON NGƯỜI VÀ THI PHẨM:
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918) kết thúc, Pháp nằm trong danh sách nước thắng trận nhưng nợ Mỹ ngập đầu. Nợ sâu thì bấu nặng. Pháp phải dùng dự luật ”Khai thác thuộc địa” năm 1921 vào ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia). Cuộc khai thác này đã sản sinh ra tầng lớp tiểu tư sản, tư sản và làm phá sản giới thợ thủ công.
Nguyễn Tuấn Trình xuất thân từ gia đình tiểu tư sản mà bố là giáo viên. Cách mạng tháng Tám thành công, những chàng trai mới lớn không ”bỏ văn chương học võ biền” như Tú Xương mà cùng Chính Hữu “vác trăng vàng treo trên đầu súng”. Người Vệ quốc quân TT ấy đã một lần ra đi không hẹn ngày trở lại vào năm 1950 tại Cao Bằng lúc chiến dịch biên giới Thu – Đông bùng nổ…
TBH vượt qua mọi thời đại cùng tên tuổi của Thâm Tâm – Nguyễn Tuấn Trình đi vào lòng người và dòng thi ca Việt Nam có thêm một thi phẩm bất hủ.
I. TBH qua cách nhìn của các Giáo sư, Tiến sĩ và giới Nghiên cứu văn học:
1. TBH với Hoài Thanh – Hoài Chân (HT- HC) trong ”Thi nhân Việt Nam” (TNVN):
Cuốn TNVN được coi là cái ”nền” khi ai đó muốn tìm hiểu về những người thi nhân của thời xa xưa ấy. Vì xa xưa cho nên có những lời nhận xét cần được xem lại, những thi nhân cần được hiểu thêm để đánh giá, trả họ về đúng vị trí. Với những ”nhận xét, đánh giá” cần coi lại đó, giới nghiên cứu, phê bình, bình luận trong tay có ”cái roi ngựa” của Ts. Lê Tiến Dũng cũng không dám ”quất” vào dù chỉ là ”quất cho có”!
Với 67 từ vỏn vẹn, HT- HC dùng để giới thiệu thi phẩm TBH: “Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài thơ dưới đây lại thấy sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại, uyển chuyển như phần nhiều thơ bây giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” (sđd tr 275).
Nhận xét trên có nhiều từ ngữ cần bàn:
- “Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại, uyển chuyển”: Không hề có. Nhịp thơ vẫn êm đềm, uyển chuyển với: 2/3/2 (Đưa người/ ta không đưa/ qua sông… chuyển sang 2/2/3 Bóng chiều/ không thắm/ không vàng vọt), qua 2/2/3 Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ) tới hết!
Bài thơ TBH ngược lại với cách nhận xét của HT – HC. Hầu hết các Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà Nghiên cứu lại xem đó như ”kim chỉ nam”, là ”cẩm nang” khi viết bài về TBH. Họ quên mất TBH sở dĩ gia nhập làng ”Thơ Mới” muộn màng nhưng lại có sức sống, tiếng vang là vì cái gì nếu không có giá trị hiện thực và hình tượng? Người ta cũng quên đi loại thơ tình cảm lấy nước mắt, xé lòng độc giả làm sao có cái giọng điệu ”rắn rỏi, gân guốc”!
Nhận xét này của HT – HC dùng cho những bài văn, thơ tuyên truyền, cổ động như bài ”Á tế á ca” của Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh (Mười chính sách của Việt Minh, Bài ca dân cày, nông dân, binh lính, phụ nữ… Khuyên đồng bào mua báo Việt Nam độc lập…) thì chính xác hơn!
TBH đúng là thơ viết cho nhạc theo dòng trữ tình, nhẹ nhàng, sâu lắng chứ không phải hùng dũng như nhạc ra trận. Những nhạc sĩ phổ thơ TBH theo lời nhận xét của HT- HC làm bài thơ chuyển nhạc đượm “gân guốc”, “gấp, rắn rỏi”, “gắt” đều làm bài TBH “xuống cấp” hay được “nâng cấp”, chúng ta có thể nghe bản nhạc TBH qua nhạc sĩ gạo cội Trầm Tử Thiêng với dàn nhạc công tài ba và giọng ca loại một nhạc tiền chiến: Khánh Ly (vnthuquan.net/nhac) hay Thanh Trang phổ nhạc TBH (đổi rất nhiều từ) với giọng ca Quang Tuấn (khanhly.net/phoxua) thì sẽ đánh giá được ngay.
- HT- HC cho rằng TBH ”Vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”. Nhận xét này cần thay lại từ ”thời đại” bằng ”thi phẩm” thành “vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thi phẩm”. Bởi lẽ, ”mây có cụm, gió có nguồn”. Thời đại lúc ấy đã quá rõ ràng: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945) bùng nổ. Cuộc chiến với thời ly loạn có gì ”khó hiểu”! Thời buổi giao mùa Tây – Tàu lẫn lộn nên ông Đồ già của Vũ Đình Liên đang cô đơn trong thế giới cực kỳ thê thảm ”Giấy đỏ buồn không thấm. Mực động trong nghiên sầu” thì tầng lớp tiểu tư sản có sự chọn lựa nào khác hơn? Không vào quân đội như TT, Quang Dũng thì làm cánh chim lìa đàn như Nguyễn Bính, Vũ Trọng Cang…
Tôn Thảo Miên (TTM) trong “Từ điển tác giả, tác phẩm” (Nxb ĐHSP – 2004, tr 662) đã vận dụng câu cẩm nang này và lý giải cái “khó hiểu” của TBH: “Sự ‘khó hiểu’ đó phải chăng là sự giãi bày tâm trạng của một người có tình yêu thiên nhiên, đất nước, có niềm tin và tình cảm yêu mến đối với bạn bè, đối với những những chiến sĩ cách mạng phải hy sinh vì việc lớn, nhưng trong hoàn cảnh đất nước bị thống trị, ông không thể tự do bộc bạch tâm trạng mình”.
Trần Hữu Tá (THT) trong “Từ điển văn học – Bộ mới” (Nxb TG – 2004, tr 1641) lý giải tương tự: “‘Khó hiểu’ là vì trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân thống trị, nhân dân mất tự do nên nhà thơ không thể nói rõ tâm trạng thật: ‘lòng yêu nước sâu kín, tình cảm mến trọng những người chiến sĩ cách mạng đã từng bí mật đi về nương nấu tại gia đình ông và bị giặc bắt bớ tù đày’”.
Có khác gì bài viết học sinh được “gà” trong các cuộc thi nếu không nói “đạo ý tưởng”!
Trở lại TBH, HT – HC viết: ”nhưng bài thơ ấy làm sống lại cái không khí riêng của nhiều bài thơ cổ”. Nhận xét này làm cho các nhà nghiên cứu phải mở lại những trang sách thời Đường của Trung Quốc với những bài thơ cổ nổi tiếng theo thể ”Hành”: Từ Hành của Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị đến Hành của Việt Nam với Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Tuấn Khải… Ðây là một ý hay.
Khi HT hạ bút: ”Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong” thì cũng nên xem lại. Thật ra, thơ thất ngôn cổ phong và thất ngôn ta không khác nhau gì mấy nếu nói về nghệ thuật (thể thơ 7 chữ). Nó cũng chẳng khác bao nhiêu về nội dung với những tính ước lệ, tượng trưng, điển tích… Có khác là khác ”chất Việt Nam” hiện đại hơn một thời gian nghìn năm trước đó cùng đề tài. Nếu thơ cổ thể chuộng cái ‘‘thực” thì thơ Việt Nam thời ly loạn thích cái ‘‘mộng’‘ dẫn tới chẳng bài nào giống bài nào dù cùng một đề tài ”Tống biệt” (Xem phần 16 nhà thơ Ðường và các nhà thơ Việt Nam với đề tài ”Tống biệt” sau).
Tuy nhiên lời nhận xét của HT – HC về TBH ”khó hiểu” về nội dung là không sai. Thi phẩm này vẫn khó hiểu cho đến muôn đời và những ai từng nghiên cứu về một thời đại trong thi ca vô cùng cám ơn về lời nhận xét trên. “Kính lão đắc thọ”, các Giáo sư, Tiến sĩ, những Nhà Nghiên cứu văn học không ngần ngại mang 67 từ nhận xét của HT – HC ”chặt khúc” ra rồi tùy theo khả năng mà truyền lại cho giáo viên, học sinh và độc giả với mức độ thành công khác nhau.
2. TBH với Lê Tiến Dũng (LTD) trong“Giờ văn ngoài lớp” – Nxb Trẻ:
Bài viết này, tác giả sau khi phân tích xong đã nhận định: ”Chỉ một Tống biệt hành cũng đủ để đóng dấu tên tuổi ông vào thi ca một thời”. Nói như vậy, thời chúng ta, TBH có còn giá trị là một bài thơ hay nữa không? Tất nhiên, không phủ nhận LTD có những câu nhận xét đúng theo thi phẩm với cách hiểu phổ thông, học đường: ”Bài thơ tống biệt có kẻ ở người đi. Người ở mà lòng xao xuyến tái tê, kẻ đi cũng đau đớn trĩu lòng”.
Với lời người ra đi, LTD viết: ”Nhưng dù sao người ra đi vẫn quyết chí lên đường để thực hiện chí lớn của mình chứ chất định không chịu ở trong cảnh ngột ngạt tù túng. Cái chí quyết tống biệt ấy làm cho bài thơ thật giàu chất lãng mạn.” Cái ”giàu chất lãng mạn” phải là cái ướt át của thơ ca có mây, có nắng, có gió, có bình minh, có chiều tà, có mùa gọi mùa qua từng lời bỡ ngỡ… thì làm sao mà ”gân guốc, rắn rỏi” như HT – HC nói hay ”trầm hùng, bi tráng” như LTD bảo?
Người đọc thật sự ngỡ ngàng khi phải xoáy sâu vào cái ”chí lớn”, cái ”ngột ngạt tù túng” chưa có căn cứ, chưa thật rõ ràng để trả lời câu hỏi ”ngột ngạt, tù túng” vì cái gì? Xã hội hay thời đại hoặc chế độ mang lại? Bởi vì, nhân vật ra đi trong TBH của TT cũng như Dũng trong ”Đoạn tuyệt” của Nhất Linh chẳng biết định hướng con tàu mình đi đâu, về đâu? Cái chí ”quyết tống biệt” mơ hồ ấy có phải là ý thật của bài thơ có nhiều đối lập, nhiều sự dằn vặt buốt người này? Tống biệt cái gì? Ðưa tiễn ai? Ai là người đi? Người nào là kẻ tiễn? Tống biệt là tiễn đưa. Quyết tống biệt là quyết tiễn đưa. Nếu nói ”bài thơ tống biệt có kẻ ở người đi”, chẳng lẽ người đi đủ quyền ngược đời “quyết tống biệt (tiễn đưa) người ở”? Ngược lại, người ở sao lại ”quyết tống biệt người đi?”. Vậy thì LTD đã có chỉ ra ý chính ”quyết tống biệt” của toàn bài rất xác đáng nhưng lý giải người nào là chủ thể quyết định sự ”tống biệt” và ”tống biệt cái gì” thì chưa.
3. TBH với Mã Giang Lân (MGL) trong ”Tuyển tập 450 đề và bài văn’‘ - Nxb ĐN:
Tác giả dẫn giải hai nhà thơ đời Đường: Thi Tiên Lý Bạch, Thi Thánh Đỗ Phủ để nêu bật hai đối lập về trường phái lãng mạn và hiện thực nhưng cùng TBH có cái xa xưa buồn với chiều tà, dòng sông, hình ảnh người đi, kẻ tiễn trong TBH đều được hầu hết những tác giả có bài viết về nó liên tưởng đến một điển tích quen thuộc mà MGL chưa nói rõ hơn nguồn tích ở trong bài: Đó là hình ảnh tráng sĩ Kinh Kha được thái tử Đan, người nước Yên đưa tiễn (đi thích khách tên bạo chúa Tần Thủy Hoàng) bên bờ Dịch Thủy. Kinh Kha đã hát hai câu thơ trong tiếng sáo não lòng của Cao Tiệm Ly:
Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn,
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục hoàn.
Bản của Đàm Giang (geocities.com):
Phong tiêu tiêu hề dịch thủy hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề, bất phục phản
dịch nghĩa:
Gió hiu hiu nước sông Dịch lạnh
Tráng sĩ một đi không trở về.
“Bất phục hoàn” hay “Bất phục phản” trong “Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản” (Hoàng Hạc Lâu - Thôi Hiệu) nghĩa như nhau. Bản dịch của Nhữ Thành (vnthuquan.net): “Gió hiu hắt, chừ Dịch Thủy lạnh ghê. Tráng sĩ ra đi chừ không bao giờ về“). Nếu tác giả bài viết trên đã đưa điển tích này vào thì cũng nên cung cấp cho nghiên cứu sinh, sinh viên, học sinh những bài thơ có liên quan về điển tích Kinh Kha (“Thích khách liệt truyện” – “Sử ký Tư Mã Thiên“, Nhữ Thành dịch, Nxb VH – 1988). Đó là bài thơ “Dịch thủy tống biệt” chỉ 4 câu của Lạc Tân Vương, “Bài ca sông Dịch” 57 câu của Vũ Hoàng Chương, “Tráng sĩ hành” 36 câu của Á Nam Trần Tuấn Khải cùng đề tài. Đặc biệt trong “Bắc hành tạp lục” phần 3 của Nguyễn Du có bài “Kinh Kha cố lý” (Làng cũ của Kinh Kha) 28 câu có dẫn nguyên câu “Phong tiêu tiêu hề, Dịch thủy hàn” như trên. Cũng vì mắc vào lý giải cho được cái lý do Kinh Kha ”ra đi” của ”ly khách” trong TBH mà MGL đã cho qua cái chất buốt lòng của người ra đi, quên mất cái phần sắc màu lãng mạn cần phải có của thi ca mà LTD có đề cập. Bởi cảm nhận chủ quan chưa chín nên MGL sa vào sự áp đặt đáng tiếc. Tác giả viết: ”Đến lúc biết được đường lối cứu nước của Việt Minh thì Thâm Tâm đã bày tỏ lòng mình với người ra đi vì việc lớn” !! MGL còn khẳng định đó là người chiến sĩ ra đi vì ”việc lớn” qua từ ”ly khách”!! Thật ra, thi phẩm TBH tính luôn cả đoạn cuối bị cắt bỏ có 26 câu thì đâu có từ nào ẩn ý ”chiến sĩ” hay ”Việt Minh” gì?
Phân tích, bình thơ, dĩ nhiên, tác giả có quyền liên tưởng, suy diễn. Sự suy diễn, suy đoán phải dựa trên sự cảm thụ sâu sắc, thông cảm, rung động thật sự để mạch cảm xúc đi vào lòng người đọc qua ngòi bút của mình. Sự suy diễn này cũng không nhất thiết phải giống người khác. Có như vậy, chúng ta nhận được tác dụng tốt cả ba chiều: Tác giả viết – Người sáng tác – Độc giả. Ngược lại, nếu ta sa vào áp đặt, dù mang tính chất vô tư hay lấy lòng đều phản tác dụng nếu không bị coi là ”non tay nghề” hoặc chưa đủ ”công lực”.
Tác giả TBH sẽ buồn lòng khi người bình, phân tích suy diễn hai người chị trong thi phẩm ”Một chị, hai chị cùng như sen” thành những người chị xác xơ, tiều tụy như sen cuối hạ, ”đã khuyên em nhiều, đã khóc nhiều để đến lúc chia tay, các chị cũng chỉ còn vài giọt lệ sót của ly biệt” như một sự áp đặt, diễn xuôi thê thảm các nhân vật mà tác giả hết lòng thương yêu như trong văn bản đã nêu nhưng người đời chưa kịp cảm nhận và chia xẻ.
Càng đi vào cuối bài văn làm dùm cho học sinh luyện thi tú tài, đại học này, độc giả càng mơ hồ vì không hiểu nổi với những cái từ”nguyên âm mở, phụ âm vang” để chống lại ‘’sự bào mòn của câu chữ quen tay” mà MGL dùng. Nên nhớ thi phẩm này có nhiều dị bản. Nếu bám chặt quá vào ngữ pháp thì phải nên so sánh, đối chiếu và nêu cho được tại sao mình chọn từ này mà không chọn từ khác?
4. TBH với Trần Đình Sử (TĐS) trong ”Giảng văn chọn lọc VHVN” - Nxb ĐHQG, HN và trong ”Tuyển tập 450 đề và bài văn” Nxb ĐN:
Mở đầu, tác giả dùng lại từ của HT- HC để nhận xét TBH: ”Giọng thơ gân guốc, rắn rỏi”. Tuy nhiên, khi tác giả cho rằng “Bài thơ buồn nhưng không sụp xuống cũng như dứt khoát, dửng dưng mà không vô tình” thì nội dung bài thơ ca ngợi ”một người giã nhà ra đi theo chí lớn mà vẫn nặng lòng lưu luyến, bịn rịn với gia đình” là một ý sáng. Chỉ có điều, tác giả lý giải ”dửng dưng mà không vô tình”, đứng về mặt nghĩa từ là chưa chính xác lắm. ”Dửng dưng”: Tính từ có nghĩa là quay lưng, là lạnh nhạt như trong ”dửng dừng dưng”. Ví dụ: ”Dửng dừng dưng chẳng đoái hoài người ta” tức là ”vô tình, bạc nghĩa” rồi còn gì! Nó khác với sự dễ thương của từ ”vô tình” tính từ chỉ tính cách làm như chả cố ý. Ví dụ: ”Vô tình để gió hôn lên mắt” (nthh) hay ”Em qua đó vô tình mắc nợ” (Thùy Lam – VHTN - 2005).
Vậy, từ ”vô tình” theo nghĩa ”bạc, nhạt, lạt” là mặt trái của từ ”có tình” nên không thể với ”dửng dưng” ngồi cùng một chiếu, đắp cùng một chăn. Hai tính từ chỉ cùng mức độ cùng một nghĩa có lý nào phủ định cho nhau bằng liên từ ”nhưng”. Ví dụ: Không thể nói ”buồn nhưng không sầu” hay ”hạnh phúc nhưng không vui vẻ”. Làm gì có kẻ ”dửng dưng” mà ”có tình” bao giờ? (Nếu dùng trong cách chơi chữ thì hay quá như ”Quạ mà không đen. Mỹ mà không đẹp. Bông hồng mà không hồng. Mù mà không đui. Tóc bạc mà không trắng. Rắn mà không mềm…).
Từ chỗ đây, ta có thể suy ra: Có một con người đang buồn vì buộc lòng phải dửng dưng với một cái gì đó mà mình không muốn. Sự ”dửng dưng” đó là cái gì? Tác giả chưa nghĩ ra nên lại phải mượn nguồn tư duy khác cũng từ suy nghĩ của thực tiễn mà khắc họa nên hình tượng người ra đi. Lẽ ra, ta dùng từ ”hình ảnh” mới đúng.
Hình tượng thông qua ẩn dụ như sự tôn vinh một sự vật, con người có giá trị vĩnh cửu, mang vóc dáng một thời đại, mang ý nghĩa một chân lý, đại diện một tầng lớp người với những khát vọng tương lai.
Ví dụ như hình tượng người: Người chiến sĩ trong ”Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất đã đại diện cho lớp người dám hy sinh vì tổ quốc; hình tượng chị Dậu trong ”Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đại diện một lớp người bị áp bức đánh lại kẻ áp bức trong đơn độc; hình tượng Thúy Kiều trong ”Truyện Kiều” của Nguyễn Du là nạn nhân của một chế độ phong kiến đến hồi suy đồi; hình tượng AQ của Lỗ Tấn tiêu biểu cho chủ nghĩa tự mãn của lớp người thiếu tri thức. Hình tượng vật: Năm cầu vòng tượng trưng cho Olympic. Hình tượng cái cân biểu hiện công lý…
Về nhân vật trong TBH, ta chưa thể nói ”hình tượng ly khách” ngay cả! Muốn trở thành ”hình tượng”, trước hết, tác giả phải cho người đọc thấy được ”hình ảnh” ly khách trong bài thơ rồi từ đó nâng cao thành ”hình tượng” cho cả một thời đại.
Đi vào lĩnh vực nghiên cứu, phê bình, ta lại đụng chạm phần lý luận văn học cần phải vững vàng. Phê bình cần lý luận văn học như người viết cần cây bút. Mất cây bút, mười ngón tay có giỏi cũng chỉ được cái nhúng mực vẽ mười con… giun đất như Trạng Quỳnh trong giai thoại mà thôi!
Giáo sư Lê Ngọc Trà trong ”Văn học 12 tập 2” – Nxb GD có viết: ”Như vậy giữa điều tác giả nói ra và người đọc tiếp nhận không phải lúc nào cũng trùng hợp”. Ta cũng có thể hiểu rằng suy diễn áp đặt cho thi phẩm là vì mức cảm thụ văn học giữa người đọc về tác phẩm đã bị hạn chế trong ”cách cảm thụ văn học thứ hai” của Lê Ngọc Trà ”dẫn đến chỗ hiểu sai lệch hoặc làm nghèo nội dung của tác phẩm” dù cách đọc này ”đòi hỏi một trình độ cao hơn”.
Dựa trên lý lẽ đó, TĐS đã ứng dụng vào ”ly khách” trong TBH như thế nào? Tác giả cho đó là một ”người trượng phu” giống như Kinh Kha, như ”chàng tuổi trẻ” trong ”Chinh phụ ngâm”. Ngầm hiểu như thế là chưa đúng hẳn. Kinh Kha mang trong người một quyết tâm hành thích cho được Tần Thủy Hoàng. Đó là một chí lớn. Chàng tuổi trẻ trong ”Chinh phụ ngâm” ra sao? Hãy nghe Ðặng Trần Côn giới thiệu:
Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
Đầu bút nghiên hề, sự cung đao.
Dục bả ”liên thành” hiến Minh thánh
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu.
(Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt. Xếp bút nghiên theo việc đao cung. Thành liền mong kiến bệ rồng. Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời - Theo bản dịch của Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích). Chàng bỏ bút, cầm đao cung để đánh giặc. Đó cũng là một chí lớn. Còn ”ly khách” của TT có “chí nhớn” nào ở đây? Tác giả đã không đề cập, chỉ nói ”chí nhớn chưa về bàn tay không” nên ta cũng chỉ dựa theo văn bản mà ngôn ngữ đã có rồi tự nghĩ ra, lý giải ý của mình sao cho phù hợp dù biết rằng nhiều khi đi đúng ý tác giả cũng chưa chắc đã hay hơn hoặc dở hơn.
Cũng như các tác giả khác, TĐS đã cho hai chị của người ra đi là ‘’sen cuối mùa hạ” trong khi TT chỉ tả: ”Bây giờ mùa hạ sen nở nốt”! Sự tiễn đưa giữa người đi, kẻ ở giữa ”bổn phận gia đình và lý tưởng”, tác giả bài viết có đưa ra được nhưng chưa thật sự lôi cuốn độc giả cho lắm nhưng ý này coi như là cái ”phao”. Cái phao này có thể nói là một cách nhìn thông cảm của người viết ”Ly khách đã ra đi trong tình cảm luyến tiếc sâu sa”. Tuy nhiên, TĐS vác ”người trượng phu” vời vợi vào đây làm cho ”ly khách” bé nhỏ kia ”gân guốc, rắn rỏi” lên một cách khiên cưỡng làm sao mà phù hợp với ”người ấy” trong đôi mắt ”đầy hoàng hôn” mà thi phẩm đã dựng lên?
Ly khách chỉ là người đi xa. Mức độ giữa những từ: Ðại trượng phu, Anh hùng, Tráng sĩ, Chinh phu thì Ly khách được xếp hạng… em út bởi chưa làm nên tích sự gì cho đời cả. Cho nên, không thể so sánh ”chí nhớn” với những bậc ”cha chú” để nói về hình ảnh ”ly khách”. Tác giả cũng chưa chỉ ra được vì sao người con trai kia cần phải chọn một trong hai là ”gia đình” hay ”lý tưởng”? Người cha ”trụ cột” gia đình đã ở đâu? Giả sử cách giải quyết ”tình nhà” và “lý tưởng” vẹn toàn mà thi phẩm có ẩn ý thì ta hãy chọn để thi phẩm thêm được một giá trị cao hơn giá trị đã có mà không phải dằn vặt ai hy sinh cho ai cả. Trên tinh thần này, TĐS có đi qua nhưng không dừng lại.
Tất nhiên, tác giả cũng cố gắng lèo lái người đọc đi từ hình thức nghệ thuật sang nội dung như lối phân tích truyền thống. (Thật ra, cách phân tích ấy cần xem lại vì chúng đi nghịch với cảm xúc) để ca ngợi TBH đã ”gieo vào lòng người một ý vị bâng khuâng, xốn xang”. Ta thấy rằng cái ”ý vị” đó chưa hẳn là vì luật bằng trắc như tác giả quan niệm mà vì nguồn cảm xúc tinh tế, dạt dào, tràn trề của TT mang vào ngọn bút tạo thành những bức tranh ẩn dụ. Khả năng này không phải ai cũng giống nhau.
Hình ảnh Kinh Kha đã không cần thiết khi phân tích, bình luận thi phẩm này với một vài tác giả dưới đây:
5. TBH với Trần Đăng Xuyền (TĐX) trong ”Giảng văn Văn học Việt Nam” – Nxb GD:
Tác giả cũng như những người khác đều sử dụng ”cẩm nang” của HT – HC làm lời dẫn và cũng so sánh hơi thơ của TBH với hơi thơ cổ: ”Nói nhiều cái không để tô đậm, làm nổi bật lên một cái có thật là tâm trạng buồn tê tái của con người”. Nỗi ”buồn tê tái” này trong TBH là buồn tê tái của ai? Người đi hay người ở? Chàng hay nàng? Romeo nhớ Juliet hay Kiều ở lầu Ngưng Bích với ”Những nỗi lòng tê tái”? Chịu!
Như các bài viết khác, TĐX đã đi theo con đường này khi sử dụng “gân guốc, rắn rỏi”, với hai người chị thì ”tàn tạ như sen cuối hạ”.
Phân tích thơ như vậy là tập cho học sinh thuộc lòng bản cửu chương hai mà chẳng động não, tư duy để phát hiện điều gì mới mẻ trong tác phẩm. Có một điều ngạc nhiên là tác giả đã không đưa hình ảnh tráng sĩ Kinh Kha vào đây. Cố ý hay quên thật cũng là điều tốt vì đã nói mức độ lý tưởng của ”tráng sĩ”, chàng ”ly khách” kia còn xa mới với tới và sự ra đi không có mốc tới chẳng cần thiết phải vác hình ảnh Kinh Kha cao vời vợi vào làm gì!
Tiếng nói thầm mở đầu của TBH qua tác giả là ”cực tả tâm trạng xao xuyến buồn tê tái của lòng người lúc chia tay”. Dĩ nhiên học sinh (HS) sẽ nắm được các ý này để làm bài:
- So sánh TBH với thơ cổ để thấy sự nổi bật không lập lại khi TBH không dùng dòng sông chia ly như trong thơ cổ. (Ta có thể nói thêm: Dòng sông cũng còn có một nghĩa tượng trưng rất ngậm ngùi là sang ngang. Trong âm nhạc, điều này thể hiện rất rõ qua các ca khúc. Ví dụ như “Tôi đưa em sang sông” của Nhật Ngân và Y Vũ).
- HS cũng sẽ thấy được cái ”chí lớn” của người ra đi, gạt bỏ hết mọi thứ với sự ”dửng dưng” mà trong đôi mắt u ẩn vẫn chất chứa nỗi sầu ly biệt.
- HS cũng hiểu được hai tâm trạng người đi, kẻ ở với điệu thơ ”rắn rỏi, gân guốc”.
- HS thương dùm hai chị ”tàn tạ như sen cuối hạ”!
(Quái lạ! Cánh mày râu, ai cũng đồng lòng cho phụ nữ khi chia ly đều ”tàn tạ” nhanh chóng. Ai cũng cho sen cuối hạ là sen lụi tàn mà quên rằng ”trong đầm gì đẹp bằng sen!”. Ý đẹp tuyệt vời này trong thi phẩm mà không ai nhìn nhận!? Trong đầm, sen dù đã tàn, chúng ta cũng hưởng thụ được dư vị thoang thoảng của hương vị tinh khiết này).
Thật ra, vấn đề đặt ra trong TBH: Ai đi? Ai ở? Ai đợi? Ai chờ? Đi đâu? Làm gì? Chí lớn? Chí nhỏ? Chị khuyên em trai cái gì? Ai thà? Ai coi ai thà? TĐX cũng như các tác giả khác vẫn đặt nặng và chưa vén được bức màn bí mật. Càng hỏi lắm thì càng có nhiều câu trả lời rối rắm. Thử nghĩ cần hay không cần cụ thể như thế khi phải đi cặn kẽ tìm vào những sự vật, sự việc mà nhiều khi chỉ là sự hư cấu của tác giả? TĐX thấy được ”nỗi buồn” nhưng lại chưa nêu ra được vì sao ngoài sự buồn vì chia tay gia đình. Tâm lý nhân vật trong TBH đã ẩn sâu trong 2 ý “ngươi buồn chiều hôm trước” và “ngươi buồn sáng hôm nay”. Thời gian này không thể chỉ coi như thời gian hôm nay và ngày mai mà phải coi nó như thời gian của quá khứ và hiện tại. Dứt bỏ được nỗi buồn trong quá khứ, “ly khách” mới có thế có “chí nhớn”. Vậy, nỗi buồn quá khứ là nỗi buồn nào? Không lý giải, chẳng giải quyết được, chúng ta chẳng thể nào giải mã “ly khách” (một giã gia đình) là người hôm nay và “người ấy” (một giã gia đình, một dửng dưng) là ngày hôm qua trong TBH. Trong trò chơi đố chữ: Tìm không ra nghĩa thì người chơi buộc phải “mua nguyên âm”. Trong TBH, tìm chưa ra ẩn số, chúng ta phải “níu áo”: Thời đại và tác giả.
Nếu chia tay với gia đình, người tiễn phải là người trong gia đình chứ sao lại có ”tác giả” tiễn đưa “ly khách” trong gia đình kia đi? “Người ấy” là “ly khách”? Tác giả viết dùm cho tâm sự người bạn mình chăng? Tác giả thi phẩm TBH có phải là người trong gia đình không?
Các ngòi viết phân tích, bình luận trên vì đi theo cách bổ dọc từng đoạn nên tạo ra sự nhập nhằng giữa người tiễn và người đi. Vấn đề nan giải ấy sẽ còn mãi nếu ta cứ đi theo từng đoạn mà phân tích bởi ý đoạn này sẽ nối tiếp ý cho những đoạn, câu khác trong bài mà đôi khi trùng nhau về câu nhưng lại khác ý. Có khi đang xem xét ở đoạn này lại phải mượn câu đoạn khác minh họa. Đó là điểm đặc biệt “khó hiểu” nhất của thi phẩm TBH.
Dưới đây là bài viết đi hướng chẻ đoạn:
6. TBH với Nguyễn Hưng Quốc (NHQ) (vhvn.com):
Toàn bộ bài bình thật ngắn gọn khi tác giả chỉ trích ngang, minh họa. Tuy nhiên, tác giả có vài chỗ nêu những ý sắc nét nhất là gần cuối bài. Tác giả cũng đồng ý như những người khác cho TBH ”Có lẽ là một trong những bài thơ hay nhất của thời 30 – 45”. Thật ra, TBH nên được xếp vào danh sách những bài thơ hay nhất cả mai sau.
Thơ hay là thơ của muôn đời chứ không phải bị hạn hẹp bởi bốn bức tường của một giai đoạn. Những bài thơ hay chỉ có thể lớn theo cùng năm tháng, chạy song đôi với thời gian. Chúng không bị cô lập bởi phạm vi tư tưởng của một thời đại.
Muốn đưa TBH vào danh sách ”top” chỉ còn chờ người chạy tiếp sức bước cuối cùng: Đó là công sức của những nhà nghiên cứu, phê bình văn học thực sự.
NHQ đã cho rằng trong TBH có ”hai lời độc thoại của một người đi, một người tiễn” nhưng cũng không biết họ là ai? Hiện nay, những bài viết về TBH mới chỉ ”lượn tròn, lượn khéo” như bướm lượn vườn hoa chưa tìm ra cái ”nhụy”. Đấy mới là ”chút khó hiểu” của thi phẩm chứ không phải ”chút khó hiểu của thời đại’‘ như HT – HC đã nhận định.
Cái ý mới của NHQ là đưa ra thêm một ”người yêu” đưa tiễn: ”Chị em và người yêu lưu luyến như thế ấy chẳng lẽ đành tâm ra đi?” nhưng chưa chỉ ra được, dẫn giải đâu là hình ảnh người yêu? Rõ ràng, những tác giả dù có trình độ, có sự cảm thụ văn học nhưng khả năng tìm cho ra cái “lõi” của TBH đến nay họ đều chưa có chìa khóa. Điều này chưa hẳn là họ non tay mà chính vì tác giả TBH khéo lẩn núp dưới nhiều lớp ”ngụy trang”, dưới nhiều sắc áo: Mẹ, chị, em, bạn bè… để giấu đi hình bóng ”người ấy” suốt sáu, bảy chục năm qua. Có một điều chắc chắn là vì muốn cho thi phẩm được thương yêu này có thêm giá trị tống biệt nên bài viết nào cũng cố gắng đi tìm nghĩa mới lạ mỗi người mỗi vẻ nhưng ”tư tưởng lớn” gặp nhau không ở con đường lạ mà lại ở con đường… trùng hợp như ta đã thấy ở trên.
NHQ có chút mới khi đưa bốn câu cuối bài thơ đã bị cắt bỏ khi đăng trong TNVN mà Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng dựa theo nguyên bản đăng trên ”Tiểu thuyết thứ bảy” (TTTB) năm 1940 phục hồi trong VNTNTC là một ý hay nhưng tác giả lại đồng ý sự cắt xén đó:
Mây thu đầu núi, gió lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
Ly khách ven trời nghe muốn khóc
Tiếng Đời xô động, tiếng hờn câm.
Tác giả nêu lý do cắt bỏ bốn câu cuối vì: ”lạc điệu, lạc thi pháp, lạc giọng, lạc tứ…” đã ”xóa tan hình ảnh nghênh ngang, hào sảng… Biết cường điệu mà vẫn thấy đẹp”, biến ”ly khách thành nhỏ nhoi, thảm thương” qua hình ảnh ”ven trời nghe muốn khóc”. Cho nên, tác giả đồng tình với TT hay HT- HC: ”Cho dù do ai, sự cắt bỏ ấy cũng rất tài tình”.
Tài tình hay không thì sự tự tiện cắt bỏ một văn bản cho theo ý mình là một sai phạm văn học nên tránh. Nếu bốn mùa là của cuộc đời thì văn học không của riêng ai. Cũng có thể vì quan niệm cắt bỏ văn học như bác sĩ cắt bỏ… ruột thừa nên Nguyễn Tấn Long (không còn có Nguyễn Hữu Trọng đứng liên danh nữa) trong cuốn “Việt Nam thi nhân tiền chiến toàn tập” (VNTNTCTT) tái bản có sửa chữa (Nxb VH – 2000) đã cắt đứt đuôi con nòng nọc 4 câu cuối của TBH! Điều đó quả không nên đối với sự nghiêm túc, công bằng của người làm văn học với công việc biên tập. Nếu nói thơ “dở”, thơ “dỏm” mà cắt thì hầu như nền thi ca Việt Nam hiện nay, khi đưa vào máy cắt, sẽ chẳng có bài thơ nào tồn tại. Nếu có, chúng cũng không còn nguyên vẹn hình hài cho một bài nào!
Chính vì quan niệm ”cắt bỏ tài tình” ấy đã đẻ ra nhiều văn bản bị tự tiện sửa đổi từ câu đến ý. Thành ra, nếu chúng ta cứ phân tích, bình luận theo nghệ thuật với những biện pháp tu từ thì cần thận trọng: Thi phẩm TBH qua những sao chép không được cân nhắc nên đã có nhiều từ bị đổi ngay cả dấu câu, ngôn từ địa phương… cũng chẳng biết đâu là nguyên bản ngoài cuốn TNVN của HT - HC hay VNTNTCTT của Nguyễn Tấn Long là cũ nhất. Chẳng trách gì người bình, phân tích lắm lúc đi lệch lạc, đôi khi sa vào phần phụ diễn áp đặt thái quá! Nếu người phụ diễn khá vững vàng về phong cách viết (khả năng cầm bút), giải quyết vấn đề tác phẩm (khả năng rung động) thì mang lại cho đọc giả những cơn mưa mùa hạ, bằng không chỉ mang lại nắng cạn của ngày đông.
Tác giả thứ hai đi theo cách bổ dọc:
7. TBH với Chu Văn Sơn (CVS) trong ”Phân tích, Bình giảng tác phẩm Văn học 11” Nxb GD:
CVS đã mang lại cho người đọc ”nắng cạn mùa đông” hay ”cơn mưa mùa hạ” khi phân tích thi phẩm TBH?
Tác giả có chú trọng vào trình độ học sinh nghĩa là cố gắng viết ở dạng dễ đọc đối với học sinh trung học nhưng không sa vào chủ nghĩa sơ sài: Viết cho xong. Viết cho có. Viết lấy lệ. Tác giả lướt qua con đường phân tích sáo mòn để cố gắng rút lại cho thi phẩm khá nhiều ”khó hiểu” này một điểm sáng chọn lọc. Đó cũng chính là sự tôn trọng độc giả, hướng họ nhìn nhận, cảm thụ, hiểu tác phẩm với cách mới nhất mặc dù trong cách này vẫn còn đôi chỗ giữ nguyên ý cũ giống các bài trước.
Bài thơ nào cũng có chỗ hay, chỗ chưa hay. TBH có bốn câu đầu hay nhất mà CVS đã chỉ ra được so với các bài khác khen chung.
Phân tích tác phẩm phải đưa tác phẩm về nguyên bản của nó. CVS và NHQ đã đưa vào bốn câu cuối bị cắt bỏ nhưng cả hai đều không giống nhau mà chưa biết bản nào đúng hơn vì các tác giả đưa 4 câu cuối của TBH vào mà không chỉ rõ nguồn. Nếu chúng ta cứ nói trích từ TTTB để làm vé qua cửa sân bay văn học thì nguồn này không tồn tại, vé này không có giá trị thời hạn.
4 câu cuối của TBH trong bài của CVS:
Hơi thu đầu núi giá lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm.
Buồn ở lưng trời nghe đã lại
Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm.
(Xem phần TBH với nhiều bản sao khác nhau phần gần C ). Không hiểu CVS lấy 4 câu này từ văn bản nào?
Đưa tác phẩm trở về nguyên vẹn của nó để tác phẩm biểu hiện được ”tầm khái quát, sự sâu sắc và tính chân thật” như Gs. Lê Ngọc Trà nhận định, CVS tránh không lặp lại từ ”gân guốc, rắn rỏi” mà các bài viết trên đều sử dụng. Phần vào đề của CVS rõ ràng, hấp dẫn khi nhắc đến Thôi Hiệu để dẫn đến TT. Có thể mượn lời nhận định của Gs. Lê Ngọc Trà để nói về TBH như sau: ”Tác phẩm văn học luôn sống động nhờ sự tiếp sức của bạn đọc”. Thật như thế, bài viết, bài sáng tác chỉ mới là khởi đầu của một cuộc chạy tiếp sức. Người bình, phân tích và bạn đọc chính là những người đưa tác phẩm đến cửa đường đua. CVS đang ở gần cuối con đường chạy đó?
Cũng giống như những tác giả viết về TBH khác lấy câu cuối của HT – HC: TBH có ”đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại” nhưng lại khác ở chỗ CVS dùng để lý giải cái khó hiểu của bài thơ từ nhiều năm nay qua dẫn chứng: ”Báo giáo dục, thời đại và Báo văn nghệ 92, 93 tranh luận” nhưng chưa đi đến đâu và thi phẩm vẫn ”Cứ gây khó hiểu cho thời đại này”.
Đi vào trả lời câu thắc mắc trên, CVS bám vào từ ”ly khách” nhưng không phải là người ”chiến sĩ” như MGL cũng chẳng nhất thiết là người “chinh phu” như TĐS so sánh mà chủ yếu là giá trị ”nội dung thẩm mỹ của hình tượng ly khách”.
Phân tích tác phẩm là tìm ra cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Bình một tác phẩm là xem xét sự tìm tòi đó, phát hiện đó có đúng hay không? Cái hay, cái đẹp lại nằm trong những hình ảnh, hình tượng và lẩn trốn chung quanh từ ngữ, câu chữ với những mâu thuẫn, những nghịch cảnh… đòi hỏi người phân tích phải có một bản lĩnh. Trong khi đó, cái đúng sai nằm trong văn bản đòi hỏi sự chính xác và người bình phải có một bộ óc phán đoán sáng suốt, tinh tế mới không bị hình tượng đánh lừa.
CVS có bị sự kiện trong TBH đánh lừa không? Tác giả không phủ định ý kiến người khác vì cho rằng: ”Sự kiện đi vào hồn tác giả để trở thành hình tượng phải qua nhiều ‘bộ lọc’ lắm: nào cảm quan riêng, nào khuôn mẫu riêng, nào chất liệu riêng’‘. Cho nên, khi MGL khư khư khẳng định ”người ra đi” là người ”chiến sĩ” biết ”đường lối cứu nước của VM” thì CVS đồng ý ”người ra đi” là một nam nhi mang chí lớn với LTD nên khó chấp nhận một ”chiến sĩ” từ đâu lù lù chạy vô thi phẩm ”Bởi trong bài thơ, không có bất cứ chi tiết nào đủ làm căn cứ khẳng định đây là chiến sĩ cách mạng”. Nhưng hình ảnh nam nhi trong TBH chưa có mang chí lớn nào hết dù ta có cố gắng mổ xẻ TBH thì kết quả cũng là con số 0. Vì thế mà trong bài viết, CVS cho ”người ra đi” chỉ là một người bình thường đang có một mái nhà ấm êm thì phải ra đi với mục đích ”Đi đâu? Đi để làm gì?” vẫn còn bỏ ngỏ. Khả năng phân tích của tác giả giữa sự giằng co ”tình và chí”, giữa ”bổn phận và khát vọng” giữa sự tương phản bề ngoài, bề trong thật sâu sắc mà các bài viết khác chỉ dừng lại bên ngoài với cái vẻ ”dửng dưng nhưng không vô tình” mà thôi. Sự dằn xéo giữa ”bổn phận và tình nhà” được tác giả phân tích sâu sắc hơn TĐS. Con hơn cha, trò hơn thầy là điều đáng mừng!
Tác phẩm, bản thân nó là một công trình thì người hiểu được nó lại là một công trình vĩ đại hơn. Nó giống như một bản nhạc hay nhờ chất giọng ca sĩ hát hay, hát đúng với sự phối hợp đầy công sức của ban nhạc. Một kịch bản hay cũng nhờ đạo diễn, diễn viên. Riêng đối với thơ, người làm, người bình phải có sự rung động với trái tim yêu thương tha thiết và sự đồng cảm thật tình. Không đứng trên cái nền tảng ấy, bài thơ nhạt nhẽo, mất hương vị còn bài viết lệch lạc nội dung như con chim bay vô hướng!
Hướng đi của CVS là đưa người đọc, nhất là các em học sinh hiểu thấu được: Người đi là người con trai duy nhất trong nhà đang phải dằn lòng để buổi tống biệt không ngập tràn nước mắt của mẹ của chị của em. Người hiểu lòng anh không ai xa lạ chính là tác giả. Hóa ra, người đi dứt áo, người trong lòng rưng rưng cũng chính là… tác giả!
Tri kỷ là ở chỗ đó. Chuyện đi ở lắm điều phải bàn. Nếu cuộc đời êm xuôi, ta không có ”Tấn trò đời” của Bandăc (Honoré de Balzac). Nếu đời no ấm, ta không có ”Những người khốn khổ” của HuyGo (Victor Hugo). Nếu tình yêu phẳng lặng, ta không có ”Romeo-Juliet” của Sechpia (William Shakespeare) và chẳng bao giờ biết đến ”Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Cho nên, khi chiến tranh xảy ra, ở ngoài đời không thể không có “Cuộc chia ly màu đỏ” của Nguyễn Mỹ, cuộc chia tay trong “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn… Không có cuộc chia ly nào mà không có người tiễn thì trong thơ không thể có người tiễn mà thiếu người đi!
Nếu sự chia ly chỉ là ”lòng tiễn đưa lòng” trong TBH thì đây là điểm mấu chốt để dò lần ra ”Người ấy” trong TBH và ”Người ấy” trong HSHTG là một! Màn hé mở nhưng cũng đã khép lại trong hoàng hôn! CVS đã nhập vào thi phẩm mới bật ra: ‘‘Không nặng tình sao có thể buồn da diết đến vậy” và CVS cho rằng: ”Người thiếu cảm thông chỉ thấy bề ngoài, người tri kỷ thì cứ thấu từ gan ruột mà ra”. Bạn bè không thiếu, tri kỷ khó tìm là vậy. Người biết yêu ta thì chỉ mới là bạn ta mà người hiểu ta mới chính là tri kỷ của ta đó!
“Tống biệt” người thân là sự chia ly đau đớn nhất nhưng ”Tống biệt” một tình yêu mới là sự chia ly xé lòng của bão biển, của trời nghiêng, đất lở, nước tụ, sóng dồi mới có ”tiếng sóng trong lòng”, mới có ”hoàng hôn trong mắt”! Vậy thì sao TT dùng hình ảnh đó để tiễn một người đàn ông như hầu hết các bài viết đã chắc như đinh đóng cột phán xét? Có chắc đó chỉ đơn giản là một người đàn ông trong văn bản không? Còn người ẩn hình trong cuộc chia ly đầy “sóng trong lòng”, ngập “hoàng hôn trong mắt” này ở đâu? Tới đây, mọi phân tích, bình bài TBH coi như bị đảo lộn. Nhưng dù cho nó bị đảo lộn thì cũng giống như dòng nhạc có nốt đảo phách bất ngờ. Chính cái bất ngờ đó, tác phẩm nói chung, TBH nói riêng càng tạo ra sức hấp dẫn lôi cuốn người ta nhảy vào dòng sông ”tống biệt” này để lặn, hụp và bơi trong dòng sông đắng cay da diết, buồn nhớ mênh mông này!
Trở lại sự tháo gỡ của CVS “Người ra đi là ai?” coi như đã rõ ràng: ”Hai người đàn ông, hai người bạn tri kỷ”. Họ chia ly trong hoàn cảnh đã nêu đầu bài với những dằn xé ”đầy ngang trái và ẩn khúc… tiêu biểu cho thời đại ấy, vừa có tính cách muôn thuở”. Đây cũng chỉ là suy đoán khó thuyết phục của CVS cũng như các tác giả khác. Với ”ngang trái, ẩn khúc”, những bài viết khác ngập ngừng với cách giải quyết ở đoạn cuối (thật ra là gần cuối thôi): “Thà coi… thà coi… thà coi…”.
Ai mới là người có cái quyền quyết định đó? Nếu là mẹ thì lòng mẹ bao la có đời nào không khi từ bỏ con mình chỉ vì nó ương bướng ra đi! Là chị? Nước mắt khóc em với ”dòng lệ sót” kia đâu phải là những giọt nước mắt từ bỏ em mình? Còn cô em gái càng không thể bỏ anh mình trong ”ánh mắt ngây thơ”! (Cô em gái ngây thơ đến mức tặng anh trai chiếc khăn tay – biểu hiện tình yêu? TT nào có ngốc đến thế?). Vậy chỉ còn người con, em, anh ra đi… hy sinh tình nhà mà thôi!?
CVS lý giải cho cái uẩn khúc trên: ”Hy sinh bổn phận tình nhà hay để tình nhà hy sinh mình? Cái nào cũng đau đớn dằn vặt cả.” vì ”Những lời nói như đã vỡ ra cùng nước mắt”. Thật ra, chỉ có người bỏ ra đi mới hy sinh tình nhà chứ không mắc mớ gì tình nhà hy sinh người ra đi! Bởi vì chủ thể gây ra hình ảnh “ly khách” chứ không do người nhà. Người làm người chịu không nói gì đây lại không làm, không gây, không tạo mà phải chịu gánh chung mới… đau ơi là đau!
Kết cục, CVS chốt lại: ”Mặc cảm lỗi đạo, bất hiếu là đỉnh điểm của tình cảm biệt ly ở đây” mới tạo ra ”một vẻ đẹp đầy uẩn khúc của ly khách”.
Cuộc đời đầy mâu thuẫn, thơ ca đầy uẩn khúc. Cái bất hạnh vẫn bên cạnh cái may mắn nhỏ nhoi của hạnh phúc. Niềm vui chốc lát không át nỗi buồn đau hằng ngày. Bài viết hay vẫn đó đây có những chỗ lỗi từ, lỗi ý, lỗi câu… CVS không ngoại lệ.
Đoạn thơ đầu hay nhất của TBH qua ngòi bút phân tích của CVS đã trở thành đoạn phân tích khá nhất nếu so sánh với sáu cây bút trên. CVS nhìn thấy ở đó là sự tương xứng giữa hai cặp thơ với hai câu trên là nỗi lòng người tiễn, hai câu dưới dành cho tâm trạng người đi như LTD qua cách gieo vần bằng và hàng loạt từ ”ong…” mang âm hưởng xáo động của ”tiếng sóng”. Sự kiện hay chi tiết nội dung cũng như nghệ thuật tìm ra được nhưng muốn chiếm cảm tình độc giả hoặc chinh phục độc giả, người viết với tay nghề khác nhau sẽ dẫn dắt độc giả đồng tình khác nhau.
Thế nhưng khẩu khí “Ta – Người” có đúng là chỉ dành riêng cho ”hai người đàn ông”, “hai trang nam nhi” như CVS, TĐS và LTD nói không? Cặp từ này từ lâu không còn độc quyền dành riêng cho giới mày râu nữa. Thử tìm trong lĩnh vực thơ ca Việt Nam, chúng ta thấy rõ cặp từ này được sử dụng cho cả hai tuyến nhân vật nam và nữ.
Tú Xương trong bài “Nhớ bạn phương trời”, đã dùng:
Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa lắm, nhớ ta không?
Sao đang vui vẻ ra buồn bã?
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng!
Khi nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng,
Nỗi riêng riêng cả đến tình chung.
Tương tư lọ phải là mưa gió,
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng.
Nếu nói là viết cho người bạn sao lại dùng hai chữ “nhớ, tình chung, cùng mộng tưởng, tương tư“. Tú Xương đồng tình luyến ái ư?
Mỹ Lê (quantho.net) trong chùm thơ “Không đề”:
Người ơi! Người ơi!
“Người qua bên ấy sao mà lạnh
Nhịp bước ta về, lạnh mấy mươi!”
Từng giọt mưa xuân rơi lất phất…
Đất trời nhỏ lệ tiễn chân em.
Sân bay chen chúc người qua lại
Mà bóng người xưa biết đâu tìm?
Những lời thơ này mà dùng cho “đực rựa” hay sao chứ?
Với TBH, thử đọc lại: “Đưa người, ta không đưa qua sông”. Nếu không sử dụng từ ‘‘ta” vào đây thì cũng không làm sao bỏ từ Anh, Em … vào được cả. Chỉ có khả năng từ ‘‘tôi’‘ có quyền thay thế nhưng nếu như thế thì từ ”tôi” kia giết mất cái ”ngang tàng”, cái ”khẩu khí” miệng nói lớn mà nội tâm đau đớn của người ra đi! Sự chọn lựa này của TT qua phân tích của CVS là một phát hiện. Từ ”người” không viết hoa nhưng ta cũng hiểu rằng TT cố không làm ra đặc biệt nhưng chính vì thế mới giấu đi một người đặc biệt đó thôi!
Ngôn ngữ văn học bao giờ cũng đưa ta đến với những bất ngờ không báo trước. Cặp tương phản trong bốn câu đầu giữa người với cảnh, giữa bề ngoài, bề trong theo lý giải của CVS: ”làm cho nỗi buồn chia phôi” kia là từ ”trong ruột trong tim” trào ra ngoài át hết sự tác động của thiên nhiên ”bởi lòng người quyết định tất cả”. Biết là hay như thế nhưng CVS để rơi từ ”chọi” trong câu ”Thâm Tâm muốn chọi lại với người xưa” vào đây và cũng bất thình lình, đùng một cái… độc giả… ăn một cục đất (ăn… cục đá thì lổ máu đầu, chết chắc!) trước cái đã rồi mới đến những quan niệm cổ nhân nào đó hay cuộc đưa tiễn Kinh Kha nào đó trên bờ sông Dịch!! TT có muốn “chọi” ai đâu? Sự phân tích này đã đưa CVS lại gần TĐX.
Mặt khác, nếu đi sâu hơn một chút, để ý một chút về hai người chị mà TT đã nâng niu xây dựng trong thi phẩm, CVS sẽ không nỡ lòng cho rằng họ ”đã luống tuổi”! Cái ”luống tuổi” này làm sao đồng nhất với từ ‘’sen” mà TT dùng trong thi phẩm tuy rằng CVS đã khéo chọn từ đó đỡ hơn từ ”tàn tạ” mà các tác giả khác đã ”thảy” xuống cho hai người chị không thương tiếc!
Ta cần hiểu thêm: Sen thường nở vào mùa hạ. Người con gái đẹp nhất vào tuổi dậy thì nhưng quyến rũ nhất vẫn là ở tuổi cuối thời con gái. Sen vào ”mùa hạ sen nở nốt” có nghĩa là lúc sen tung cánh nở rực rỡ giữa đầm cũng đâu khác hơn hình ảnh hai người chị đang ở vào giai đoạn rực rỡ của thời con gái làm sao mà ”luống tuổi” như CVS bảo, làm sao mà ”tàn tạ” như MGL, TĐS, TĐX nói? Phân tích như thế là tàn nhẫn với những đóa Quỳnh mà cũng làm giảm đi sự nâng niu, trân trọng, tự hào, thương yêu tràn ngập của người em trước khi ra đi dành cho hai người chị.
Đó là điều ta cần thiết nghĩ đến TBH nằm trong giá trị nhân đạo.
Văn bản ngôn từ có hai chức năng cơ bản với lời văn tạo nên thế giới con người còn từ ngữ, hình tượng hiện dần qua trí tưởng tượng người đọc. Thế nhưng sự quan niệm, tưởng tượng của các nhà nghiên cứu TBH đã nghiêng về cánh đàn ông mày râu ra đi với oai phong lẫm liệt còn cánh phụ nữ ở lại thì chỉ ”tàn tạ như sen cuối hạ” lập tức. Thật ra, sen cuối hạ cũng đâu có xấu? Đã nói sự tiễn đưa ”không có sông” mà có ”tiếng sóng” thì sen cuối hạ sao không thể là sen đẹp? Trên phương diện tư tưởng này LTD, NHQ có phần dè dặt hơn nên cho qua.
Giá trị thực sự của một tác phẩm chỉ có khi nào nó được trở về nguyên bản của nó. Cuối chặng đường này, CVS đã cùng NHQ đưa bốn câu cuối đã bị cắt vào. NHQ đồng ý với sự cắt xén đó nhưng CVS cho rằng “Hình như đây mới là điểm dừng của lời thơ, đây mới là cái kết mà bài thơ cần phải tìm đến!” nhưng chưa lý giải rõ tại sao? Cổ nhân có nói: ”Con người đứng giữa hai dòng nước, chọn một dòng hay để nước cuốn trôi?”. Giải quyết vấn đề, chúng ta phải có một thái độ dứt khoát. Con nhện có quyền giăng tơ lơ lửng nhưng con thuyền không thể dừng ở giữa dòng. Trên thế giới chính trị, thái độ trung lập có ở nhiều nước nhưng trong văn học, người làm công việc nghiên cứu, phê bình phải chọn cho mình một lập trường dứt khoát: Đúng hay không đúng? Nên hay không nên? Theo hay không theo?… và bắt buộc phải đưa vào hệ thống lý luận văn học để lý giải: Tại sao?
Cũng như những tác giả khác, CVS khẳnh định người đi, người tiễn là hai người đàn ông với những người trong gia đình như mẹ, chị, em của người bạn ấy cùng đưa tiễn? Những nhân vật này có trong văn bản nhưng ngôn ngữ thơ đã hướng cuộc chia tay đi theo ngã khác với một mức độ tình cảm lên cực điểm mà cuộc chia tay giữa hai người đàn ông bình thường không thể có được sắc thái biểu cảm đó. CVS đã chọn như thế nào khi đi vào phân tích 4 câu đầu và ba câu dưới đây:
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say.
CVS cho quyền người đọc hiểu theo hai cách: ”người thân khẩn cầu người nhà” và ”người đi hy sinh bổn phận”. Có nghĩa rằng tác giả vẫn còn lơ lửng nhưng cái ”gỡ gạc” là CVS đã mở cho độc giả một hướng đi tự mình chọn lựa với cái câu rất ý nghĩa: ”bài thơ chất chứa những uẩn khúc trái ngang này vẫn rất cần những tri âm”. Điều này có nghĩa: Những khám phá, những hiểu biết về TBH chưa có thể kết thúc. Đó là động lực lớn cho những ai muốn viết tiếp khúc nhạc tống biệt ngậm ngùi này.
II. ”Tống biệt hành”: Những vấn đề đã được các nhà nghiên cứu giải quyết và những tồn động ”khó hiểu”
Ta có thể xem xét những vấn đề nào đã được các nhà nghiên cứu, phê bình giải quyết? Phần nào còn tồn động? Giá trị nào được hiểu giống, khác nhau?
1. Những vấn đề đã giải quyết (theo các Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà Nghiên cứu):
a. Về nội dung :
- Ðó là bài thơ hay, độc đáo của sự chia ly dù không phải là đề tài mới.
- Là bài thơ đưa tiễn: Có người đi, người tiễn. Có người đi và người ở lại (mẹ, chị, em ).
- Người tiễn là tác giả (ta) với người bạn (ly khách). Họ là hai người đàn ông.
- Giữa người đi và người tiễn đều mang tâm trạng buồn thương. Giữa người đi, kẻ ở đều có những mâu thuẫn, dằn vặt đau lòng (dửng dưng nhưng không vô tình).
- Người đi có ”chí lớn” nên quyết lòng dứt áo ra đi.
- ”Sen nở nốt” trong thi phẩm được hiểu như hình ảnh hai người chị ”tàn tạ như sen cuối hạ” ,”luống tuổi”.
- Ðoạn thơ ”Mẹ thà coi như … hơi rượu say” là một “sự hy sinh”.
b. Về nghệ thuật:
- Thống nhất với thể ”Hành” trong TBH: Một lối thơ cổ của Trung Quốc (TBH được viết theo cấu trúc thơ thất ngôn Ðường luật nhưng ngắt câu tự do).
- Ðoạn thơ đầu gợi lên hơi thơ cổ là đoạn được phân tích, bình nhiều nhất với ”tiếng sóng”, “hoàng hôn”, ”bóng chiều” hay dựng lại hình ảnh Kinh Kha trên sông Dịch hoặc hình ảnh người trượng phu với chí khí nam nhi.
- Các biện pháp tu từ trong TBH được khai thác triệt để (câu hỏi tu từ: Sao nghe? Sao đầy? Khẩu khí ”Ta – Người”, điệp từ ”thà coi như…”).
- Cách gieo vần “ong”… góp phần làm bài thơ mang sắc thái thơ cổ nhưng mới mẻ về sự cách tân.
2. Những vấn đề tồn động đang còn nghi vấn:
a. Về nội dung:
- Hình ảnh ”người ra đi” là ai?” Có bốn ý kiến:
* Ðó là hình ảnh một người đàn ông, một trang nam nhi, một đại trượng phu kiểu Kinh Kha tráng sĩ (LTD, TÐS, TÐX, CVS).
* Hình ảnh một chiến sĩ cách mạng (MGL).
* Chỉ là một ”ly khách” (NHQ).
* Không nói gì (HT – HC).
- Hình ảnh ”tiếng sóng trong lòng”, ”hoàng hôn trong mắt” ai? Có hai ý kiến:
* Của người tiễn (Trừ CVS).
* Câu trước của người tiễn, câu sau của người ra đi (CVS).
- ”Người ấy” là ai ? Chỉ có TÐS đi sâu vào ”Người ấy” để khai thác, phân biệt với ”người này” (có chí khí hay không có chí khí).
- Hình ảnh ‘’sen” có ba ý kiến :
* Hai người chị tàn tạ (TÐS, MGL, TÐX).
* Hai người chị luống tuổi (CVS).
* Không nói tới (NHQ, LTD, HT – HC).
- Hình ảnh ”em nhỏ” và ”chiếc khăn tay”. Có hai ý kiến:
* Chỉ là người em gái (trừ NHQ).
* Là người yêu (NHQ).
- ”Mẹ thà … hơi rượu say” (tức đoạn cuối – khi cắt xén). Có ba ý kiến:
* Người ra đi dứt áo (LTD, TÐS, MGL).
* Ðứng giữa uẩn khúc, dằn vặt (CVS, TÐX).
* Không đề cập (NHQ).
b. Về nghệ thuật: Có hai cách chia tạm thời như sau:
- Phân tích theo cách bổ ngang nghĩa là theo thứ tự từng đoạn (trừ CVS).
- Phân tích theo cách bổ dọc nghĩa là theo ý, không theo thứ tự từng đoạn. (CVS).
CÁCH CHIA BỐ CỤC GIỐNG VÀ KHÁC
+ Cách phân tích ngang :
Với Lê Tiến Dũng: Chia hai đoạn như bản HT – HC đã chia (không rõ bản gốc, TT có phân chia như vậy không?).
- Mười câu đầu: Lời người tiễn và người đi với những tứ thơ gợi điển tích xưa.
- Mười hai câu còn lại: Tâm trạng người tiễn khi ly khách đã đi rồi.
Lối phân tích này ngắn gọn làm nổi bật tâm trạng người đi, ở nhưng nhập nhằng, dễ lẫn lộn, dễ bỏ sót những câu, những từ, những ý cần làm rõ như: Người ấy? Ly khách? Sen nở nốt? …
Bài phân tích này viết như dành cho học sinh và người bình dân dễ theo dõi nên đoạn cuối, tác giả chỉ dừng ở ”thà coi như…” nhấn mạnh điệp từ này chỉ ra ”quyết định dứt khoát” của người ra đi và vì vậy chưa lột tả hết cái “bí ẩn” của thi phẩm này.
Kết lại: Theo tác giả: Chí quyết tống biệt là ý chính của bài ”làm bài thơ giàu chất lãng mạn“.
Với Mã Giang Lân: Chia bốn khổ :
- Một. Khổ đầu bốn câu: “Đưa người… mắt trong”: Tác giả chú trọng vần bằng tạo nên cái xao xuyến, bâng khuâng tiễn đưa và lấy dẫn chứng những bài có nội dung liên quan như: Tiễn bạn của Lý Bạch, tiễn Vi Phúng của Đỗ Phủ để chứng minh TT mượn ngoại cảnh nhưng sự ước lệ của cái cổ qua TT có pha cái thực của cuộc đời.
- Hai. Sáu câu “Đưa người… đừng mong”: Người ra đi có thái độ kiên quyết, dứt khoát.
- Ba. Tám câu tiếp: ”Ta biết… khăn tay”: Tác giả cho rằng đó là cảnh chia ly bịn rịn với hai cảnh chiều hôm trước tàn tạ, hôm nay thương tiếc…
- Bốn. Bốn câu cuối: “Người đi… hơi rượu say”: Kết thúc đột ngột, ngơ ngác tạo nên cảnh người ra đi, kẻ ở lại. Tác giả lý giải “Mẹ thà coi như…” để nghĩ về ‘’sự nghiệp người ra đi”.
Như LTD, bài viết chưa thật thuyết phục vì sa vào suy diễn mang tính cách áp đặt (ly khách là người chiến sĩ cách mạng) dù suy diễn vẫn được phép sử dụng trong cách viết bài văn nghị luận.
Kết lại: Theo tác giả: Ý chính là ”nghĩ về sự nghiệp mà người chiến sĩ ra đi quyết tâm”. Tác giả đưa những bài thơ khác của TT có giọng thơ ”bâng khuâng, rắn rỏi, quyết liệt…”. Tác giả còn cho rằng chính nghệ thuật với ”thể Hành, vần bằng… chống sự bào mòn câu chữ ” mà TBH ”đứng được với thời gian”.
Với Trần Đăng Xuyền: Bốn đoạn:
- Một. Bốn câu đầu như MGL: Lời người đưa tiễn. Tác giả cho đây là ”tiếng nói thầm” qua câu hỏi cực tả nỗi buồn tê tái của lòng người lúc chia tay. Tác giả chú trọng phân tích giá trị nghệ thuật qua những ngôn từ, hình ảnh hoàng hôn, con sông, tiếng sóng… tạo nên ”giọng thơ rắn rỏi gân guốc thiết tha” chi phối toàn bài.
- Hai. Sáu câu tiếp như MGL: Nét đối lập mà thống nhất trong ”chất phức điệu ”? của ngôn ngữ.
- Ba. Tám câu tiếp như MGL: Nét đối lập mà thống nhất trong con người ly khách.
- Bốn. Bốn câu cuối như MGL: Lời người đưa tiễn ”ngơ ngác không tin” tạo ra nỗi buồn man mác qua ngữ điệu, ý thức của người ra đi dứt áo.
Tác giả cũng chưa làm nổi bật vấn đề nan giải của thi phẩm: Ai ”thà coi như…?”. Tác giả nghiêng về nghệ thuật nhiều hơn nên bốn câu đầu phân tích khá thành công. Bài viết này đòi hỏi người đọc phải động não nặng mới tiếp nhận ”chất phức điệu” mà tác giả đã dày công dàn dựng.
Kết lại: Tác giả đánh giá TBH với những sự đối lập đã tạo nên ”chất lượng thẩm mỹ’‘ cho thi đề quen thuộc và có cách nhìn nhiều chiều sâu sắc về con người. Tiếc thay, cái ”nhiều chiều ” đó cũng mới đi có một nửa.
Với Trần Đình Sử: Như MGL, TĐX chia bốn đoạn :
- Một. Bốn câu đầu: Lời người đưa tiễn với cảm xúc xao xuyến, ngỡ ngàng.
- Hai. Giống hai tác giả trên với sáu câu: Tác giả cho rằng đây là đoạn nói lên nỗi niềm thất vọng của người tiễn ”không tiễn con người mắt đầy hoàng hôn này”.
- Ba. Như hai tác giả trên với tám câu tiếp: Ký ức người tiễn nhớ lại ”tiền sử của ánh mắt hoàng hôn” qua những câu ”Ta biết người buồn hôm trước. Ta biết người buồn sáng hôm nay” với sự tiễn đưa ”đầy tinh thần níu lại”.
- Bốn. Như hai tác giả trên: Hư thực của sự ra đi với chữ ”thà” như ”một nhát dao chặt đứt tình cảm để mà ra đi”.
Bài viết có sự chuẩn bị kỹ hai mặt nội dung, nghệ thuật nhưng nhiều chỗ đi ra ngoài tầm hiểu biết của học sinh khi hướng học sinh cứ đi theo nghệ thuật câu hỏi tu từ (TBH là bài thơ có nhiều từ sửa đổi…) là không nên lắm. Cùng với MGL, TĐS đã đưa hình ảnh hai người chị tàn tạ mà văn bản không nói tới. Ngoại trừ những chi tiết đó thì đây có thể coi là bài viết không có tính cách viết chiếu lệ.
Kết lại: Tác giả kết bài bằng cách lý giải đầu đề TBH rất cổ kính để nói về sự ra đi trong khí thế ”người trượng phu” thời xưa là nội dung. Đồng thời, tác giả giải thích thể ”Hành” có từ thời Hán Ngụy Trung Quốc như MGL mà TT vận dụng tạo ra những câu hỏi tu từ, trùng điệp, thất ngôn, nhịp tự do, gieo vần bằng… để ”gieo vào lòng người ý vị bâng khuâng xốn xang” là nghệ thuật.
Với Nguyễn Hưng Quốc: Khác với những tác giả trên, NHQ chia năm đoạn mà mỗi đoạn là một lời độc thoại riêng không có hai lời đưa, tiễn chung một đoạn nào.
- Một. Thay vì bốn câu đầu như các tác giả, NHQ chia sáu câu đầu thành đoạn một như HT – HC: “Đưa người… dửng dưng”: Đó là lời người đưa tiễn buồn mênh mang…
- Hai. Bốn câu tiếp: ”Ly khách… đừng mong”: Lời người ra đi đầy hào khí.
- Ba. Tám câu như các tác giả trên: “Ta biết… khăn tay”: Người đưa tiễn biết cái hào khí kia của người đi chỉ là giả vờ.
- Bốn. Bốn câu như các tác giả trên: “Người đi… rượu cay”: Người đưa tiễn đứng ngơ ngác nhìn người đi…
- Năm (các tác giả trên không có): Đoạn này phục hồi nguyên bản đã bị cắt và NHQ đã đồng ý với sự cắt xén đó sau khi đưa ra những lý giải vì nghệ thuật lạc điệu… ảnh hưởng đến hình ảnh đẹp của bài thơ .
Nếu bài cuả HT – HC là bài viết cực ngắn nhưng lại được tất cả các nhà nghiên cứu sử dụng thì bài bình này của NHQ ngắn thứ hai nhưng mang lại cho độc giả chút hiểu thêm nguyên vẹn thi phẩm TBH. Trong đó, tác giả gợi cho người đọc sự mong mỏi có gì đó như là ”phát hiện” hấp dẫn: Đó chính là hình ảnh ”người yêu” bên cạnh gia đình (mẹ, chị, em) đưa tiễn. Tiếc rằng tác giả chỉ dừng ở chỗ này và nghi vấn ”có” hay “không có” người yêu vẫn treo trước mắt.
Bài viết của NHQ rất đơn giản nên giảm đi giá trị thật sự đáng được có của TBH.
Kết lại: Dạng bài này mang tính chất dùng tham khảo cho tất cả độc giả và ”sự cắt bỏ tài tình” của đoạn cuối TBH theo tác giả cũng ”cần xét lại”.
+ CÁCH CHIA BỐ CỤC THEO Ý:
Cách này chỉ có CVS. Tác giả chia ba ý như sau:
- Một: ”Người ra đi là ai?”: Tác giả xoay quanh hình tượng thẩm mỹ ”ly khách” với những dấu hỏi và những điều uẩn khúc qua bốn câu đầu và câu 5 đến 18. ”Đưa người… khăn tay”.
- Hai: Tác giả giải quyết ”uẩn khúc” trên bằng khổ thơ đầu (hay hơn cả của TBH). CVS phân tích về cặp từ xưng hô ”Ta – Người” làm nổi bật hai câu trên là nỗi lòng người tiễn so với hai câu dưới là lời người đi. LTD gần với CVS ý này trong khi các tác giả còn lại chỉ cho là lời của một người tiễn mà thôi. Phần lý giải cũng giống về nội dung, nghệ thuật nhưng có thể thấy rằng: Tác giả đã tránh bớt được cách hành văn ”khô như ngói” của kiểu bài nghị luận văn học với dạng phân tích, bình luận ”khó gặm” này rất ”kén” tay nghề và không chịu nhận ”bằng cấp” làm “họ hàng bà con”.
- Ba: Tác giả tập trung lý giải nan đề còn lại ”khó hiểu” gây băn khoăn cho bao nhiêu thời đại mà tác giả đã đưa ra trong phần mở đầu bài viết: ”Mẹ, chị, em… thà coi như… lá bay, hạt bụi, hơi rượu say”. Sau đó chốt lại: ”Mặc cảm bất hiếu lỗi đạo” là ”đỉnh điểm của tình cảnh biệt ly”.
Như NHQ, CVS có đưa ra bốn câu bị cắt của TBH nhưng khác hẳn câu thứ nhất “Hơi thu đầu núi giá lên trăng” so với “Mây thu đầu núi, gió lên trăng” và câu thứ ba: ”Buồn ở lưng trời nghe đã lại….” so với “Ly khách ven trời nghe muốn khóc” của NHQ. Câu cuối cùng có từ “đời”, CVS không viết hoa “Đời” như NHQ. Với 4 câu cuối thêm vào thi phẩm, tác giả không cắt nghĩa dài như NHQ mà chỉ cho rằng dừng như vậy là được.
Bài viết này đòi hỏi độc giả cả học sinh động não để tìm hiểu vấn đề. Tuy có vài ý cần bàn lại nhưng cách giải quyết và hướng đi theo cách chẻ dọc là mới mẻ hơn so với cách bổ ngang theo từng đoạn. Với những thi phẩm có những bí ẩn thì cách tốt nhất là đi theo hướng này và nhiều khi phải đi ngược từ dưới lên và phân tích theo từng câu, từng ý một.
Kết lại: Tác giả tập trung hai ý ”Người ra đi” và ”ba câu cuối bài thơ” với những câu lý giải vượt trội. “TBH rất cần những tri âm” là câu hay nhất để nói về thi phẩm độc đáo này như cắt nghĩa cho sự ”khó hiểu của thời đại”.
Chung: Dễ thấy nhất là thi phẩm TBH của TT không có văn bản chính thức cho các tác giả. Là những người hàng đầu ngành giáo dục nhưng tính khuynh hướng thống nhất văn bản đã không được họ thực hiện. Vậy, TBH của các tác giả được lấy từ nguồn nào? Đây là điểm khiếm khuyết cần phải có hội nghị văn học thống nhất văn bản như nhà nước thống nhất pháp lý. Các giá trị tư tưởng trong TBH gần như chép qua, chép lại, nói tới, nói lui mà không có phát hiện nào mới mẻ cũng chẳng làm thi phẩm TBH sáng giá lên bao nhiêu! Lỗi ở ai?
Nhìn lại, chẳng phải những sự tồn đọng này không thể lý giải trên văn bản dù là lý tính hay cảm tính mà chính là giá trị hiện thực của thi phẩm chưa được hiểu đúng và giá trị ẩn dụ của tác phẩm bị bỏ quên. Sở dĩ ta chưa thể thống nhất được ”Người ra đi là ai?”, ”Người tiễn là ai”? ”Người ở lại có phải người tiễn không?”… vì người phân tích, bình luận đã quên mất ”thời đại, con người và tác phẩm” không thể tách rời. TBH có ”uẩn khúc”? Vậy những uẩn khúc đó do đâu mà có?
Không có chiến tranh thì không có tiễn biệt. Không có chán đời hay đụng chuyện gì thì không thể ra đi. (Nếu đi tự nhiên thì thi phẩm này sẽ không còn uẩn khúc gì nữa cả thì tìm tòi làm gì cho mệt!). Có kẻ sang sông thì làm sao không có người đưa tiễn. Không có mây đen, trời đâu thể đổ mưa. Không có mùa đông làm sao có mùa xuân! Vậy thì nỗi buồn thương mênh mông cuộn vào lòng thành ”tiếng sóng” tiễn bước chân người kia đâu phải chỉ là ”hình tượng ly khách”, ”chinh phu, đại trượng phu” gì, khi ”người đi một nửa hồn tôi chết”!
Chính ý nghĩa của câu ”Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm” mà NHQ cho là sự ”cắt bỏ tài tình” kia là nguyên nhân tạo ra một thi phẩm TBH độc đáo nguyên vẹn hòa hợp đến mức không thể cắt bỏ với ”hình tượng ly khách” đánh lừa ta làm ta cứ bị lẩn quẩn không thoát ra được như con ”gà mù mắc vởn cối xay”.
TBH ”rất cần những tri âm” như CVS nói nhưng liệu khi chạm vào thời đại, đụng vào những luồng tư tưởng phải được chấp hành triệt để bất di, bất dịch liệu có ai cùng TT nâng ly ”tống biệt”? Hay cuối cùng ”tiếc” cho chút ”tri âm” này thì thương lắm cũng chỉ viết: Người ra đi là ai? Người ấy là ai? mà thôi! Vậy thì ”Người ấy” là ai trong bao vây của ”tiếng đời xô động, tiếng hờn câm”?-----
B: T.T. KH LÀ AI?:
I. Sự liên quan giữa ”Người” và ”Người ấy” trong TBH của TT và “Người” với “Người ấy” trong bốn bài thơ của T.T. Kh (trích trong VNTNTCTT của Nguyễn Tấn Long, Nxb VH – 2000).
1. ”Nỗi đau ngày trước” : Cuộc tình của TT với người con gái tên Khánh (Kh): Có thật hay không?
a. Cuộc tình TT:
Trong “Nỗi đau ngày trước” (Giai thoại Văn học, Nxb DT – 2000), Vũ Cao có nhắc đến TT: ‘Thâm Tâm trước Cách mạng tháng Tám là một nghệ sĩ sống rất tự do, làm nhiều nghề, duyên văn phát lộ ra rất sớm. Nhưng đến Cách mạng rồi vào kháng chiến, không hiểu sao Thâm Tâm phủ nhận mình hết sạch, tự rèn mình hết sức nghiêm ngặt, tuyệt không bao giờ nhắc tới thơ mình ngày trước. Mới hơn ba mươi tuổi mà đã như một ông già, gầy ốm, tong teo, tóc bạc, trầm lặng…”.
Ngẫm trở lại, thời gian đó chính là năm 1947-1950, TT vào quân đội được ba năm và cũng hơn mười năm, TT đã để tang lòng cho mối tình ”Huyền thoại T.T. Kh” 1936 kia một đi không trở lại! Những mảnh đời chấp vá thường hay sinh ra những cuộc tình nghiệt ngã. Những mối tình học trò cũng không cánh mà bay!
TT trước cách mạng là ”một nghệ sĩ”. Trong BTTN, T.T.Kh (chưa biết là ai thật, ai giả) đã nhắc lại:
Thưở trước hồn tôi phơi phơi quá,
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương…
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại,
Êm ái trao tôi một vết thương.
Chàng nghệ sĩ đó “sống rất tự do, làm nhiều nghề duyên văn phát sớm”. Sau đó, chàng đi vào kháng chiến và chẳng hiểu sao lại trở thành… ông cụ non, không muốn nhắc thơ mình ngày trước. Khi “nghe Vũ Cao đọc đến câu:
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay.
Thì cũng như cung đàn cũ bốn dây ứa máu, TT bật khóc và sau đó càng trầm lặng hơn” (sđd tr 338-339). Người xưa ao ước ”vỡ cổ kính để tìm nhân ảnh. Xếp tàn y đợi chút hương thừa’’. (Tự Ðức đã muốn ”Ðập cổ kính ra tìm lấy bóng. Xếp tàn y lại để dành hương” trong bài ”Khóc Duơng phi”) nên có một Xuân Diệu giàu cảm xúc:
Áo em để lại dáng hình.
Treo trên mắc áo cho mình thấy thương.
để gợi bóng hình với ý của ca dao: ”Áo em chín nhớ mười thương anh chờ”. Thời gian làm cho kỷ niệm xưa chết đi trong dĩ vãng thì thời gian cũng sẽ làm cho nó sống dậy mà lang thang.
Trong văn học, người ta thương Nguyễn Du vì ông đã để Thúy Kiều nhỏ nước mắt khóc thương cuộc đời Đạm Tiên. Người đời trọng Victor Marie Hugo vì ông đã cúi xuống với “Những người khốn khổ”. Trong cuộc đời thật, TT để rơi giọt nước mắt vì cái gì đây? Vì “tiếng sóng trong lòng” vì ”chiếc lá bay, hạt bụi, hơi rượu say?”. Giọt nước mắt của TT mười năm trước ”Ly khách ven trời nghe muốn khóc” hay ”Buồn ở lưng trời nghe đã lại” gặp lại… ông già TT ”ba mươi tuổi” mười năm sau! Kỷ niệm không đong đầy, không ”uẩn khúc”, không thương đau… thì dòng lệ tri âm làm sao có thể gặp nhau trên đoạn cầu tri kỷ?
Giai thoại là một chuyện. Đầu dây mối nhợ của sự việc mới là điểm chốt. Cái gì làm cho TT cố quên hẳn cái quá khứ? Nhưng ở đời làm gì có chuyện cố quên! Trong ”Sầu lẻ bóng”, nhạc sĩ Anh Bằng đã đau: ”Người ơi khi cố quên là khi lòng nhớ thêm”. Cuộc đời này có những nỗi đau đưa người ta đến chán chường là: Thất bại trên chính trường. Thất bại trên danh trường. Thất bại trên tình trường. Chính ”Thất bại trên tình trường” mới đủ sức mạnh đẩy người ta… nhảy núi! Bao nhiêu hồn ma bất đắc kỳ tử đang lang thang trong mây, trong gió là do ba chữ “Tình Tuyệt Vọng” mà ra!
TT đã không nhảy núi mà chỉ cố quên nhưng… tại sao… đùng một cái, mười năm sau khi ”người con gái vườn Thanh” bỏ chàng ra đi, TT đã thổ lộ nỗi đau xót này với một người bạn đồng đơn vị về ”Huyền thoại về nàng thơ T.T.Kh” mà Nguyễn Thạch Kiên ghi lại trong cuốn ”Về những kỷ niệm quê hương” (Nxb Phượng Hoàng – 1996) với nội dung “Trọn vẹn về những bài thơ ‘Hai sắc hoa Ty-gôn’ và sự thực Huyền thoại Nàng T.T. Kh“. Về việc TT còn thổ lộ điều bí mật tình cảm của mình và Khánh với Hồ Thông, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Tố, Anh Đào, Ngân Giang… như tin “cá tháng tư”, chúng ta sẽ xét tiếp phần sau.
Nỗi đau mà TT nếm trải trước khi những thi phẩm độc đáo ra đời ký dưới hai cái bút hiệu Thâm Tâm và T.T. Kh (đang chờ giải mã) đó chính là mối tình dang dở giữa TT và người con gái tên Khánh (Kh) khi họ còn ở tuổi học trò ”ăn chưa no, lo chưa tới” trong HSHTG:
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trần gian khổ chết yêu đương.
Trái tim TT hay Kh rỉ máu trong HSHTG, BTTN, BTCC và TBH vì “người” và “người ấy” :
Tai ác ngờ đâu gió lạ qua,
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
Thổi tan âm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
(BTTN)
Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi…
Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp,
Đi nhớ người không muốn nhớ lời!
(BTCC)
Đưa người, ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
(TBH)
Những từ “người” trong thơ của họ không còn cho riêng một người mà ẩn dụ cái ta nằm trong cái tôi huyền thoại đó! Ai đã ra đi và ai còn ở lại? Nhân vật trong thơ ra đi trong mơ hồ nhưng ngoài đời, TT đã là người đi thật. Trước đó, Kh cũng là người ra đi. Tại sao cuộc tình đang ”phơi phới” dù ”nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn” mà lại phải chia tay? Hỏi thơ, thơ chẳng trả lời. Hỏi người, người đã cuối trời đi xa! Ta đành quay về hỏi sách vậy.
b. Nỗi đau ngày trước với những nghi vấn về tiểu sử TT:
- TT ra đi trong trong bối cảnh nào ngoài “Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm”?
Người ra đi trong BTTN năm 1937 (và tiễn người đi bến cát xa) mà TBH có nhắc (đưa người ta không đưa qua sông/ ta chỉ đưa người ấy/ một giã gia đình, một dửng dưng) chưa khẳng định là một ở đây nhưng trong tất cả những trang sách viết về TT đều xác định: Có một TT đã đi vào đơn vị sau Cách mạng tháng Tám thành công. Như vậy, mối tình “chàng nghệ sĩ” TT và “cô gái vườn Thanh” có thật và đã tan tành mây khói trước đó. Tìm hiểu ảnh hưởng của Kh có tác động gì đến sự ra đi của TT cũng như ảnh hưởng qua thời đại là một thao tác cần phải có đối với những bài thơ nhiều uẩn khúc như TBH. Bởi vì, tất cả những tác động tình cảm riêng tư đó sẽ quyết định một phần nào đến sự nghiệp sáng tác của tác giả cũng như chủ đề từng tác phẩm.
- TT lên Hà Nội cùng gia đình năm nào?
Tôn Thảo Miên (TTM) trong ”Từ điển tác giả, tác phẩm văn học” – (Nxb ĐHSP – 2004, tr 662) chỉ ghi: ”Ông sinh trong một gia đình nhà nho nghèo. Thuở nhỏ học tiểu học ở Hà Nội, hết bậc tiểu học, ông bỏ học đi làm, kiếm sống bằng nghề vẽ tranh. Ông bắt đầu làm thơ, viết văn từ đầu những năm 1940”.
Trần Hữu Tá (THT) trong ”Từ điển văn học bộ mới” (Nxb Thế giới – 2004, tr 1641) cho rằng: ”Khoảng 1938, cùng gia đình lên Hà Nội kiếm sống bằng nghề vẽ tranh và bắt đầu làm thơ, viết văn”.
Hai bài này không thấy chua từ nguồn nào và nội dung na ná giống nhau.
Hà Bình Trị (HBT) trong “Ngữ văn, 11 tập 2 (Nxb GD – 2004, tr 97) ghi: “Khoảng năm 1938, ông cùng gia đình chuyển lên sống ở Hà Nội và bắt đầu làm thơ, viết truyện ngắn, tiểu thuyết và soạn kịch nhưng thành công nhất là những sáng tác thơ”.
Bài này ngắn gọn quá đã đánh mất tính chất “nghệ sĩ” tài hoa của TT và không nêu được những tác phẩm cơ bản của tác giả. Tức là HBT không nói đến TT là họa sĩ và tác phẩm văn học tiêu biểu. Đây là phần thiếu sót lớn khi chúng ta viết tiểu sử tác giả.
Như vậy, TT từng lên Hà Nội vào năm 1938? Tài liệu này, các tác giả cũng lấy từ đâu ra, đào từ đâu mà có?
Bởi vì năm tháng là một trong những căn cứ (thời gian chứng) rất quan trọng để chứng minh TT có phải là T.T.Kh hay không? TT có mối tình với Khánh hay không? Nếu các tác giả nói trên và các tác giả cùng ý kiến đồng ý “biểu quyết”: TT cùng gia đình từ Hải Dương lên Hà Nội kiếm sống từ năm 1938 thì tất cả những chi tiết liên quan đến T.T.Kh và những bút hiệu ký Thâm Tâm trong các bài “Dang dở, Màu máu Ti-Gôn, Các anh” hay những đơm đặt chuyện kể “cá tháng 4” về TT và T.TKh phải kết thúc tại đây. Chúng ta khỏi cần bàn vì:
- TT từ Hải Dương lên Hà Nội 1938 tức TT đã 21 tuổi cách các bài thơ T.T.Kh một năm.
- Các bài thơ T.T.Kh xuất hiện ở Hà Nội trên TTTB bắt đầu năm 1937, TT có liên quan gì đến bút hiệu này? Không lẽ ở dưới Hải Dương (thành phố của bánh đậu xanh và vải thiều) cách Hà Nội 57 km, TT gởi… hồn tương tư lên Hà Nội… bồ với Khánh rồi làm thơ ký T.T.Kh gởi lên TTTB (lúc đó TT đã làm việc cho TTTB đâu?) “hù” thiên hạ? Có “bồ” thì cũng gặp ở đâu, quen biết chỗ nào đấy trước chứ? Hồi đó, làm gì có mục “Tìm bạn bốn phương” và tìm bồ trên vi tính trong room “Chat” như hiện nay mà yêu búa xua, vùa một cái là có cả vốc bồ?
- Đã không liên quan gì tới cuộc tình Khánh hay K, TT lại mới tập tành làm thơ đã vội làm thơ giành giật với bóng ma Khánh hay Kh trên thi đàn? Chúng ta không thấy chúng ta đã… nhầm lẫn thời gian hay sao?
- Cuộc tình TT nếu có với Khánh thì ở Hà Nội từ năm 1936-1937 theo Nguyễn Vỹ, và căn cứ theo nội dung bài thơ năm 1937 đi ngược dòng thời gian 1936 – 1935… (một mùa thu trước mỗi hoàng hôn, từ ấy thu rồi thu lại thu) sao mà nghịch lý đến thế?
Nhưng thực sự, mối tình đầu của TT và Khánh đã có nhân chứng (những người quen biết) và vật chứng (thơ) rồi. Nghĩa là TT lên Hà Nội năm 1936. Tức là ở tuổi 19 – 20.
Chúng ta loại bỏ chi tiết trong các cuốn sách: “TT lên Hà Nội kiếm sống năm 1938” tại đây.
- TT bắt đầu làm thơ từ năm nào?
Khi những nhà nghiên cứu đều thống nhất ý kiến cho rằng: TT gia nhập làng ”Thơ Mới” muộn nhưng đã có tiếng vang với TBH được ghi năm 1940 (đăng năm 1941 theo HT – HC nhưng TTM ghi đăng năm 1942 trong TNVN. TTM nhầm hay còn cuốn TNVN nào khác hay không!? Hà Bình Trị ghi năm 1943 với cuốn “Thi Nhân Việt Nam in lần thứ hai, Nguyễn Đức Phiên xuất bản, Hà Nội 1943” sđd tr 99).
Một cuốn sách TNVN của HT – HC (Nguyễn Đức Phiên) đã in TBH năm 1941 mà tái bản lần ba thì ghi 1943 là sao? Tác giả này cũng lấy TBH từ đâu ra?
NTL ghi: “Thâm Tâm chính thức góp mặt vào làng thơ tiền chiến từ năm 1938” (sđd tr 412).
Như vậy: TT làm thơ sớm nhất là năm 1938 (không có bài thơ nào đóng mốc) và trễ nhất là 1940 (TBH đóng mốc)?
TT năm 1940 chỉ thấy có các bài: “Các anh, TBH,, Hoa gạo, Vạn lý trường thành, Không đề, Mơ thuở thanh bình, Chết, Ngược gió” theo NTL (VNTNTC, sđd). Nhưng các nguồn này cũng chưa thật chính xác vì NTL chẳng biết có chính mắt đọc TTTB hay không? HT – HC trong sách mình từ năm 1941 cũng chỉ ghi về TBH “rút ở tập Thơ Thâm Tâm chưa xuất bản” mà chẳng ghi năm tháng. Tập “Thơ Thâm Tâm” này do ai chọn, ai cung cấp? Tập thơ ấy có bao nhiêu bài? Bây giờ, nó ở đâu? Có phải tập “Thơ Thâm Tâm” do MGL tuyển chọn và in năm 1987 không? Đã tuyển chọn thì chắc chắn, MGL biết TT còn những bài thơ khác? Chúng nằm ở đâu? (MGL trả lời với người viết, những bài thơ TT và T.T.Kh do ông trích từ TTTB năm 1976 bằng bản viết tay. Nhưng các tác giả khác cũng nói trích thơ TT, T.T.Kh từ TTTB lại khác nhau từng bản một?!). Năm 1941, khi tuyển chọn, HT – HC cũng không hề đọc TTTB. Vậy, ai đã chính mắt đọc được TTTB có đăng những bài thơ ký T.T.Kh và Thâm Tâm? Người nghiên cứu văn học lại cố tình quên lãng “nguồn tư liệu” tối quan trọng này. Tư liệu văn học không rõ nguồn gốc, cũng giống như hàng hóa, thuốc men, thức ăn chẳng có nhãn hiệu bảo chứng thật hay giả, uy tín hay không? Làm sao chúng ta có thể phân biệt bằng mắt thường?
Không có căn cứ nào thì chúng ta cũng chỉ căn cứ theo bài thơ TBH đã được đóng dấu “bảo chứng” này: Thâm Tâm làm thơ năm 1940. TT là T.T.Kh năm 1937 được đặt ra với HSHTG! Bài thơ liên quan tới T.T.Kh như “Các anh, Dang dở” năm 1940 tồn tại dưới bút hiệu Thâm Tâm. Ta hãy xét tới nội dung để xem thử phải TT làm hay không? Còn bài thơ “Màu máu Ty Gôn” ký Thâm Tâm, cả hai MGL (1987) và NTL (1968) khi đưa vào sách mình đều không ghi chú thời gian. Bài thơ này nhất định phải làm từ 1938 – 1940. Ta tìm hiểu nội dung để phân biệt chơn, giả? Chúng ta chỉ xét tới những cuốn sách viết cũ nhất vì những cuốn sau hoặc những bài viết khác không ghi nguồn nào rõ hơn thì cũng chỉ là… sao chép lại mà thôi!
TT chia tay tình đầu với Kh vào năm 1936 (không phải chia tay với bút hiệu T.T. Kh vì làm sao ta có thể khẳng định T.T. Kh là con gái qua những bài thơ tác giả xưng ”tôi” và gọi ”người ấy” là ”anh” và càng không thể nghĩ rằng hễ bất cứ ai mang thơ vào nhà xuất bản là người đó chính là tác giả).
Chúng ta thống nhất với thời gian này thì càng khẳng định TT không phải là T.T.Kh của năm 1937. Thế nhưng, khả năng TT lấy bút hiệu T.T.Kh bộc phát lớn. Còn nói TT có hay không có, làm bao nhiêu bài trong 4 bài ký T.T.Kh, chúng ta lại xét riêng phần khác.
- TT mất năm nào? Ở đâu? Nguyên nhân? Tư liệu?
NTL (sđd tr 412) đã… cho TT chết sớm hơn hai năm: “Sau cơn bệnh tim tái phát, thi sĩ Thâm Tâm đã chết bên bờ sông Đuống ở đất Bắc vào năm 1948”!? Thế nhưng, cùng tác giả, cùng cuốn sách nói trên do nhà xuất bản Văn Học chịu trách nhiệm với biên tập Phan Đang thì biên tập… cải tử hoàn sinh cho TT… sống thêm… 8 năm (từ 1948 theo NTL đến 1956 và 6 năm theo sách hiện hành 1950-1956) mới cho… theo diện… bệnh tim. VNTNTCTT ghi như sau:
THÂM TÂM
(1917-1956)
Hiện tượng ghi nhầm hoặc cố làm vẻ hiểu biết kiến thức về ngày sinh tử cho các tác giả cũng lắm cái buồn cười. Ví dụ tác giả nào viết tiểu sử Đông Hồ trên “vi.wikipedia.org”: “Đông Hồ (10 tháng 3 năm 1936… tên thật Lâm Tấn Phác), rồi cố tình “chua” thêm bằng cách mở ngoặc: “Mất ngày 25 tháng 3, năm 1969 (33 tuổi) tại Sài Gòn” dưới cái hình… ông già đội khăn đóng đeo gương cận khoảng 50-60 tuổi! Còn ghi rõ Đông Hồ đã có… tập thơ Đông Hồ (1922), Lời Hoa (1934), Linh Phượng (1934), Cô gái xuân (1932-1935). Thật biết “nhát ma” người! Đúng là “sinh ông rồi mới sinh cha… “. TT thì gởi hồn đi yêu, chưa làm thơ mà cũng có thơ, chưa lên Hà Nội mà đã có người yêu ở Hà Nội thì sao Đông Hồ chưa được mẹ đẻ mà đã có 4 tập thơ xuất bản trên? Tác giả nhầm thì đã không mở (…) để chú thích buồn cười như vậy? Tai hại là: Các trang web thường có những “thợ săn” bài cũng “săn tin nhầm” luôn. Ví dụ web thivien.net cũng sao lại “Thi sĩ Đông Hồ (10/3/1936 – 25/3/1969) tên thật là Lâm Kỳ Phác”!?
Các cuốn sách các thầy chúng ta thì sao: Tác giả Mai Hương trong “Từ điển văn học Việt Nam” - dùng trong nhà trường- (Nxb ĐHSP – 2004, tr 111) ghi Đông Hồ sinh năm “1896 – 1969″ nghĩa là Đông Hồ sống tới 73 tuổi; còn Lê Chí Dũng trong “Từ điển văn học bộ mới”, (Nxb TG – 2004, tr 454) ghi: Đông Hồ (1906 – 25-III-1969), Đông Hồ chỉ sống tới 63 tuổi. Những con số 33, 63, 73, số nào đúng? Con số 63 đúng với HT – HC trong TNVN, đúng với NTL trong VNTNTCTT.
Trở lại năm mất của TT:
Nguyễn Tố trên báo Sống 15/4/1967 (“Phá vỡ ‘Nghi án T.T.KH.và Thâm Tâm”, NTL sđd tr 429): “Năm 1936! Bọn chúng tôi gồm năm thanh niên, chưa tên nào quá 25 tuổi. Cả năm gã đều có máu nghệ sĩ giang hồ… Trần Huyền Trân… Vũ Trọng Can… Nguyễn Tuấn Trình người bé nhỏ, loắt choắt… lấy bút hiệu là Thâm Tâm, ngoài tài viết kịch, làm thơ, gã còn là một họa sĩ trình bày báo rất cừ. Thâm Tâm còn mấy bài thơ ký tên T.T.Kh… Với thiên hồi ký ngắn này, tôi xin nói lên một sự thật, ngỏ hầu làm sáng tỏ một vấn đề… với cái xuất xứ lờ mờ. Hơn nữa, để đáp lại tấm thạnh tình giữa tôi và Nguyễn Tuấn Trình tức Thâm Tâm tự thuở thiếu thời… Sức Thâm Tâm quá yếu, lại mắc chứng bệnh tim nên anh đã từ trần… Năm đó là năm 1948. Thâm Tâm vừa đúng 35 tuổi…”.
Có lẽ vì để tỏ “tấm thạnh tình” với TT nên Nguyễn Tố đã cho người bạn “thuở thiếu thời” này… đi theo ông bà sớm hơn hai năm (1948 so với 1950) để khỏi khổ sở với chứng… bệnh “đau tim” tái phát chăng?!
Hồ Thông (NTK, sđd tr 198): “Chỉ tội cho Thâm Tâm. Hai năm sau chúng tôi được tin anh chết trên cầu sông Đuống trong một trận đánh thẳng vào Thủ đô…”.
Tính mốc năm 1947, Hồ Thông kể: “năm 1947, tình cờ tôi được điều về đơn vị có nhà thơ Thâm Tâm hiện diện…” đến “hai năm sau, chúng tôi được tin anh chết…” vị chi là năm 1949?!
Hà Bình Trị (Ngữ văn 11 tập 2, Nxb GD – 2004) ghi: “Trên đường hành quân đi chiến dịch Biên giới, Thâm Tâm bị sốt rét ác tính và mất tại Cao Bằng”.
Trúc Kỳ: “Những phút cuối cùng của Thâm Tâm” đã hồi ức năm 1992: “anh đã phải nằm lại ở chân đèo Mã Phục… gần thị trấn An Lại, cách thị xã Cao Bằng khoảng mười tám kilômét về phía Bắc” (qdnd.vn). (Đèo Mã Phục cao 620 m cách Cao Bằng 22 km).
Văn Giá: “Thâm Tâm một thời và mãi mãi” với tâm sự trùng trùng: “Ông mất vì bệnh sốt rét rừng. Cũng là do làm việc quá sức, ăn uống kham khổ, lại khí hậu khắc nghiệt mà ra cả. Đồng đội ông kể lại rằng khi phát hiện ra Thâm Tâm bị ốm thì đã vội cáng nhà thơ về trạm xá của đơn vị cách chừng một ngày đường đi bộ để điều trị, tiếc thay trên đường nhà thơ đã lặng lẽ tắt thở, không kịp trăng trối điều gì. Lúc ấy vào rạng sáng một ngày thu sương trên núi rừng Việt Bắc – 18.8.1950. Người viết bài này đã cùng thân nhân gia đình Thâm Tâm và một số nhà văn nhà thơ khác của tỉnh Cao Bằng cất công đi tìm mộ nhà thơ Thâm Tâm… Vậy là ngôi mộ Thâm Tâm hiện giờ không rõ đích xác ngôi mộ nào, nhưng chỉ biết chắc chắn là đã có mặt trong các hàng mộ liệt sĩ vô danh tại Nghĩa trang Quảng Hoà” (thotre.net).
Như vậy, tư liệu của NTL trong VNTNTC cuốn năm 1968, tái bản năm 2000 về ngày, nơi mất của TT trong VNTNTCTT là sai cơ bản.
Sông Đuống: “Sông Đuống, sử còn ghi là sông Thiên Đức hay Thiên Đức Giang là con sông đào dài 68 km, nối sông Hồng với sông Thái Bình. Điểm đầu từ ngã ba Dâu (Xuân Canh, Đông Anh, Hà Nội) tại địa giới giữa 2 huyện Đông Anh và Gia Lâm thành phố Hà Nội). Điểm cuối là ngã ba Mỹ Lộc (Trung Kênh, Lương Tài, Bắc Ninh)”.
Cao Bằng là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía tây giáp tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía nam giáp Bắc Kạn và Lạng Sơn. Phía bắc và phía đông giáp các địa cấp thị Bách Sắc và Sùng Tả của Quảng Tây (Trung Quốc)” (vi.wikipedia.org).
Con sông Đuống và tỉnh Cao Bằng này chẳng láng giềng gì với nhau. Bệnh tim với bệnh sốt rét ác tính cũng chẳng họ hàng thân thích!
Chúng ta thống nhất: Thâm Tâm trong một cuộc hành quân giữa chiến dịch Biên giới Thu – Đông đã mất ngày 18 tháng 8 năm 1950 dưới chân đèo Mã Phục gần bản Pò Noa, xã Phi Hải, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng vì chứng sốt rét ác tính. Hiện nay, tại bản Pò Noa có ngôi mộ tưởng niệm nhà thơ – liệt sĩ Thâm Tâm.
Những ai viết huyện Quảng Hòa theo Hoàng Viêm (Thâm Tâm với danh tác Tống Biệt Hành, newvietart.com) sau năm 2001 thì chúng ta nên chỉnh lại cho đúng vì Cao Bằng hiện nay gồm 1 thị xã và 12 huyện không có huyện nào tên Quảng Hòa mà chỉ có huyện Phục Hòa. Trước đó, năm 1967 hai huyện này nhập chung thành Quảng Hòa.
Những người nghiên cứu văn học chúng ta chưa thật cẩn thận khi xử lý tư liệu và bộ phận biên tập cần trang bị thêm kiến thức văn học để biên tập! Không biết còn bao nhiêu dạng sinh ông rồi mới sinh con như thế này trên các cuốn sách được gọi là “Từ điển Văn học“?!
Chúng ta thấy thời gian chính xác của mỗi tác phẩm khi có “vấn đề” như thế này rất quan trọng. Với TT, nếu biết tác phẩm được viết năm nào, ta dễ dàng biết:
- Bài thơ đầu tiên của TT là bài thơ nào?
Hoài Việt trong “Thâm Tâm, cuộc đời ngắn, tiếng thơ dài“, (Thâm Tâm & T.T.KH., NxbTrẻ – 2003) viết: “Bài thơ đầu tiên của Thâm Tâm. Khi bước vào tuổi thanh niên thì gia đình Thâm Tâm lâm vào cảnh khó khăn. Từ Hải Dương, gia đình chuyển lên Hà Nội sinh sống. Thâm Tâm làm đủ nghề: đóng sách cho nhà in Mai Lĩnh, rồi vẽ cả tranh “Bờ Hồ” bán rất chạy ở cửa các trại lính Tây – mong kiếm thêm thu nhập cho kinh tế gia đình. Dường như sự thúc ép khó khăn của đời sống không ngăn nổi tình cảm mơ mộng, dạt dào của tuổi trẻ. Cùng với khả năng hội họa, Thâm Tâm bắt đầu viết. Bài thơ đầu tiên ông chỉ rụt rè gửi cho tờ Tiểu thuyết ba xu với bút danh Trăm Năm. Đây là một bài thơ tình phảng phất nỗi buồn man mác nhưng cũng báo hiệu nhiều nét tài hoa của một thi sĩ tương lai. Bài thơ đăng xong, một điều bất ngờ đến với tác giả, ông chủ nhiệm Trường Xuân đến nhà tìm ông. Gặp tác giả, ông không thể ngờ một người ít tuổi với vóc dáng thư sinh, nhỏ bé lại có thể viết được những dòng thơ tài hoa ấy. Sau bài thơ được đăng cùng buổi gặp gỡ với ông chủ nhiệm, Thâm Tâm bỏ qua những mặc cảm rụt rè, ông trở nên phấn khích. Từ đây ông mạnh dạn viết, đặc biệt là viết nhiều truyện ngắn thường xuyên cho Tiểu thuyết thứ bảy. Kể lại cho tôi nghe xuất xứ bài thơ đầu tiên. Đây cảnh cũ, đâu người xưa của Thâm Tâm, bà Oanh, chị nhà thơ còn nhớ ‘khi viết bài thơ này cậu ấy viết trên chiếc bàn mọt ở phố Thái Phiên ngày nay’. Cũng nói thêm với bạn đọc, bài thơ này được ghi lại cũng từ lời kể của bà Oanh. Bà vẫn nhớ như in bài thơ từ lần đầu được đọc trên báo. Cũng chẳng biết sau bài thơ này Thâm Tâm còn lấy bút danh Trăm Năm nữa không và người còn gái có tên Trinh được nhắc tới là ai?” (khanhly.net)
Tin “cá tháng 4″: “Đây cảnh cũ, đâu người xưa” do chính TT làm năm 1941 đăng trên TTTB mà bà Oanh “vẫn nhớ như in bài thơ từ lần đầu được đọc trên báo”? Chỉ một lần đọc mà bà Oanh đã thuộc 22 câu thơ? Thiên tài trí nhớ thế?
Nếu đúng như Hoài Việt đã ghi thì TT làm thơ năm 1941? Vậy “TBH, Các anh, Hoa gạo, Vạn lý trường thành, Ngược gió…” năm 1940 được in trong sách MGL, NTL chẳng phải của TT ư? Lại “sinh con rồi mới sinh cha…”!
Nhưng nói Hoài Việt “bịa” lại chẳng… đúng vì Nguyễn Tuấn Khoa, con trai TT, từng xác định bà cô Oanh của ông tức chị nhà thơ TT đã đọc cho Hoài Việt nghe có ông. Thế nhưng, bài “Đây cảnh cũ, đâu người xưa” chẳng ăn nhập gì tới mối tình của TT và cô Khánh năm 1937. Hồi ức cảnh cũ, người xưa phải là hồi ức cuộc tình năm 1937 với khu vườn Thanh Giám và một mùa thu với cô Khánh mới đúng chứ! Ai lại đi nhớ cô Trinh nào?
Đó là một bài thơ hỗn hợp giữa 4 câu thất ngôn lạc loài (câu đầu tiên chỉ 6 từ) và 18 câu lục bát trật thể… lả lơi, lạt lẽo, trẻ con, nhạt nhòa…
Bài hỗn tạp này tệ hơn… vợ thằng Đậu như trên mà Hoài Việt ca gãy lưỡi: “báo hiệu nhiều nét tài hoa của một thi sĩ tương lai”! Mất công thiên hạ đi tìm cô Trinh như đi tìm cô Khánh nữa thì giấy bút mực, tiền thuê mạng lên giá!
Vậy mà cũng một đề tài, nhà thơ bác sĩ Thái Can trong “Cảnh đó, người đâu?” chỉ bốn câu mà đủ ý của hồi ức chia xa:
Gặp em thơ thẩn bên vườn hạnh,
Hỏi mãi mà em chẳng trả lời
Từ đó bắc nam người một ngã:
Bên vườn hoa hạnh bóng giăng soi
(Những nét đan thanh)
So với bài thơ trên gọi là của TT, một trời, một vực!
Bài hỗn tạp ấy mà Hoài Việt cho rằng TT làm năm 1941 lại đứng trước (đầu tiên) những bài 1940 như TBH chẳng hạn? Hèn chi với T.T. Kh, “Bài thơ thứ hai” sau HSHTG mà gọi là “Bài thơ thứ nhất“?! Đấy là người đời tra năm tháng và thêu dệt tùm lum vào hoặc TT từng có những phút giây quên lãng… “bác học” đến nhập nhằng thế!
TT làm bài thơ trên ư? Một bài thơ năm 1940 “Các anh” gọi “Khánh ơi, Khánh hỡi”. Bài thơ này thì “Trinh nâng giấc, Trinh cười”! Hai thời điểm, hai bài thơ, hai cuộc tình, hai cái tên, hai giọng thơ, hai mùa Xuân – Thu trái cẳng ngỗng: Dở nghệ thuật và dỏm nội dung sao có thể xuất phát từ một tác giả có tiếng là nghiêm khắc và đàng hoàng? Chúng ta sẽ thấy chất họa sĩ trong TT ẩn hình trong những bài thơ đích thực của TT làm. Những bài thơ bề nổi, bề bộn đời thường, nặng nề dục vọng không thể có trong người thơ họa sĩ. Bấm bụng bình, bực bội biết bao! Khá khen cho bà Oanh tỷ tỷ TT vô tình hại chết thi sĩ và hiền đệ của mình! Sự hợp tác của hai ông bà này (nếu có thật) đã “đẻ” ra đứa con hoang đầy ghẻ lở: “Đây cảnh cũ, đâu người xưa” cũng giống như Thế Nhật và Thư Linh Đỗ Thị Lạc năm 1994 cùng “rặn” ra Trần Thị Vân Chung – Vân Nương trong đứa con vô thừa tự “T.T.KH nàng là ai?”!
Vậy “nỗi đau ngày trước” của TT là nỗi đau nào?
Cô Trinh hay cô Khánh? Báo chí Hà Nội đăng đầy, bà Oanh là người hay đọc báo, lẽ nào bà không biết? Có phải Tuấn Trình yêu cả hai cô?
Nhìn đi, nhìn lại, cuộc tình chóng vắng của TT chỉ là cô Kh (mối tình đầu của TT như chúng ta đã biết) chứ chẳng có cô Trinh nào chui vào thơ TT. Vậy thì bà Oanh đã đọc bài thơ… lòi ra một cô Trinh cho Hoài Việt ghi vào sách mình là chưa đủ “cơ sở khoa học thời gian biện chứng” nếu không nói là “lắm chuyện”. Nếu có thật thì sao trưởng nam của TT là Nguyễn Tuấn Khoa và gia đình TT từ đó đến nay chẳng buồn hở miệng, không thiết hé môi?
Thống nhất: TT không làm bài thơ “Đây cảnh cũ, đâu người xưa” năm 1941 và vì bài hỗn tạp này theo nguồn thông tin cung cấp thiếu chính xác và nó không phải là bài thơ đầu tiên của TT.
Những ai thêm thắt hoặc muốn “đẻ” thêm đứa con nào dùm cho TT để thay vì quét dọn vườn hoa văn học lại đi trồng cỏ dại, “cha mẹ” đó phải cung cấp nguồn thông tin và nguồn thông tin đó phải có bảo chứng lịch sử và văn học (sách nào in, ai chép, người nào kể, mục đích gì? nội dung?). Nếu không sẽ là “thiên cổ tội nhân” bởi làm vẩn đục thêm dòng sông văn học vốn đã đục ngầu…
- TT gặp Khánh năm nào? Ở đâu?
Thắc mắc được đặt ra: Khánh là cô gái ở phố Sinh Từ – Hà Nội. Mối tình Tuấn Trình và Khánh kết thúc năm 1936 bằng hồi ức trong HSHTG năm 1937. Không lẽ chia tay tình đầu với Khánh năm 1937, TT đi về đâu? (Hải Dương quê mình chăng?) để một năm sau – 1938 lên Hà Nội lại gặp cô Trinh và hồi ức “Đâu cảnh cũ đâu người xưa”? năm 1941?
Nguyễn Vỹ trong bài “Thâm Tâm và sự thật về T.T.Kh.” đã đăng trên “Phổ thông tạp chí, số 63, ngày 15.8.1961″ (Nguyễn Thạch Kiên, sđd phần 12, trang 149) và “Văn thi sĩ tiền chiến” của Nguyễn Vỹ: “Năm 1936-37, có xuất hiện ở phố Chợ-Hôm, ngoại-ô Hànội, một nhóm văn-sĩ trẻ với bút hiệu là Trần-huyền-Trân, Thâm-Tâm và một vài người khác nữa“. Như vậy, tài liệu Nguyễn Vỹ cung cấp đáng tin cậy hơn vì thời gian viết khá lâu so với những tài liệu không nguồn bây giờ.
TT gặp Trần Thị Khánh tại Hà Nội theo Nguyễn Vỹ: “Trần-thị-Khánh là một cô học trò lớp Nhất trường tiểu-học Sinh – Từ… ngay cạnh Thanh – Giám, nơi đền thờ Khổng-Tử… Tuấn-Trình có người cô, nhà ở phố chợ Cửa Nam, gần Sinh-Từ. Anh thường đến đây và thường thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2, năm 1936, họa sĩ Tuấn-Trình (tên gọi hồi đó) mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi, thi rớt Tiểu-Học và đã nghỉ học từ Mùa Hè năm trước. Tuấn-Trình cũng mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc-Hà của Trần huyền Trân vừa xuất-bản… Ở phố Sinh – Từ, Antigone mọc rất nhiều… Tình-yêu của Tuấn-Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm Antigone vừa hé nụ, và chết trong những ngày giữa mùa Đông năm đó, trong lúc giàn hoa Ti-gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân”.
Nguyễn Vỹ cũng chỉ ra được nhà thơ nổi tiếng “Em đi chùa Hương” là “Nguyễn-nhược-Pháp, nhà ở gần nhà cô Khánh, chỉ cách 5, 6 căn”. Nhà TT, theo Nguyễn Vỹ “ở Chợ Hôm” Hà Nội.
Cuộc tình tan vỡ tạo nên tiếng thở dài cho chàng nghệ sĩ ”nghèo rớt mồng tơi” này. Không mong đợi gì người đi trở lại nên chàng ngần ngại chi mà không tự mình… đi luôn! ”Người đi? Ừ nhỉ, người đi thật”, TT không nói cho mình thì nói cho ai? Nếu tìm hiểu kỹ hơn thì ”người ra đi” trong TBH chẳng có ăn nhập gì với TT ra đi vào quân đội năm 1947 vì TBH được làm năm 1940 mà cuộc tình tan vỡ là trước đó. Vậy TT viết bài này cho ai? Để làm gì? Khoảng thời gian ”thất tình” đó, TT còn là người tự do, tự tại giữa chốn giang hồ cho đến năm 1945 (theo lời Nguyễn Tuấn Khoa, con trai TT) TT mới lấy Phạm Thị An.
NTK trong “Về những kỷ niệm về quê hương” đã kể lại lời của TT sau mười năm tình yêu tan vỡ: ”Nàng lẩn tránh tôi vì nghe lời bà mẹ.” Điều đó có nghĩa là Kh đau khổ không kém gì TT khi buộc phải lánh xa một mối tình thơ ngây? Có phải vì anh chàng nghệ sĩ ”cơm ăn chưa có, lo sao nổi bồ” này chưa có danh gì với núi sông nên đã ”lọt qua” chứ không “lọt vào” cặp mắt của bà mẹ Kh? Sự ”ngoan ngoãn” với câu ”cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó” này khiến Mỵ Châu mắc lừa Trọng Thủy trong lịch sử. Những tình duyên chênh lệch tuổi tác đã thành nguồn cảm hứng cho ca dao mỉa mai:
Gái tơ vớ phải chồng già.
Nằm bên chông chà chớ có ngon chi.
Sự ngoan ngoãn đó trong thi phẩm là những tiếng khóc đứt đoạn, là những lời nghẹn ngào, là những câu đắng cay, là nỗi niềm hối tiếc… với ”một tâm hồn héo, bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!” khi mà ”chồng thấp, vợ cao như đôi đũa lệch so sao cho bằng?”. Té ra, người ta quan niệm:
Se duyên sánh phận quần thoa
Không Trạng nguyên cũng Thám hoa rỡ ràng.
Trong thời buổi loạn lạc Tây, Tàu, Ta lộn xộn, không… đào đâu ra được một chàng rể vinh quy bái tổ thì ít ra cũng… chộp cho được một kẻ có chút bạc tiền rủng rỉnh cỡ… thương gia. Còn TT? TT là con nhà nho, nhà giáo thuộc loại ”kiếm sống bằng nhiều nghề” trong thời buổi ”thắt lưng buộc bụng” kiếm miếng ăn đã khó chắc gì có cho bồ mà Đào Xuân Quý trong ”Nhớ lại” – Nxb Thanh niên, có nhắc ”Lương không có bao nhiêu, tiền nhuận bút không đủ”. Trong “Huyền thoại về nàng thơ T.T. Kh”, tr 30 – 34, NTK cũng hồi ức: “Trường hợp Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can, Nguyễn Vỹ, Vũ Trọng Phụng, Tân Hiến, Đặng Đình Hồng và bao anh em văn sĩ khác, với cuộc sống thực rất khổ cực của họ, là những thí dụ… nên họ phải sống chui rúc trong những căn nhà phố chuột ở làng Trung – Phụng… nhưng viết cho Tiểu Thuyết Thứ Bảy thì không khá được, vì ông chủ rất kỹ về tiền bạc và rất nguyên tắc về việc chi ra. Cả bọn thường bị đói, và rét”. Cho nên, ”quả cầu” kén chồng của Khánh ném ra, TT đã không có duyên mà hưởng nên rơi vào một người khác, lạ hoắc mà TT đã mô tả: ”Là trung niên, khoảng 38, 39 tuổi… là một thương gia tạm thời có của ăn của để, một tiểu tư sản thành thị sống quẩn quanh trong năm cửa ô Hà Nội” (“Về những kỷ niệm quê hương“, sđd).
Thất tình, nản chí nhưng không… nhảy núi là may cho TT lắm. Lúc này, giữa cuộc chiến tranh thế giới lần hai năm 1939 bùng nổ. Ở Hà Nội, phong trào đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa bắt đầu: ”Triệt để sử dụng báo chí công khai làm vũ khí đấu tranh cách mạng” (Lịch sử Vìệt Nam tập 2, 1858 – 1945 trang 384). Khi báo chí là phương tiện dùng để đấu tranh cách mạng thì: Anh, chị sẽ phải viết cái gì ngoài những chủ đề về cách mạng? Bởi thế mà phong trào ”Thơ Mới 1932 – 1945” ra đời ít ra, cuộc đời có chút xí đỉnh hương hoa cây cỏ, của gió, của trăng, của màu mắt người yêu để quên bớt đi ”những cuộc chia ly màu đỏ”!
TT đến với ”Thơ Mới” muộn màng nhưng dù sao cũng đã đến. Thế nhưng:
Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phũ phàng.
mà Hàn Mặc Tử đã rên trong “Lang thang“. Tiền lương từ nghiệp thơ văn không đủ để sống. Xuân Diệu phải than: “Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt. Cơm áo không đùa với khách thơ”. Nghèo chết đến nơi! Hà Nội thời đó ngột ngạt không khí chiến tranh, sặc mùi máu tanh đồng loại khi thực dân Pháp ra tay tàn sát tất cả những ai tham gia kháng chiến. Khung cảnh đó có quyến rũ không? TT đã chọn bước tiếp cho đời mình như thế nào trong cái khốn khó của đường đời ngao ngán như Cao Bá Quát từng chán ngán trong “Sa hành đoản ca”:
Bãi cát dài, bãi cát dài
Bước một bước lại như lùi một bước?
Cách mạng tháng Tám thành công, TT mới tham gia văn nghệ trong quân đội. Nếu TT viết TBH năm 1940, và những tác phẩm sau 1940, chắc chắn thời đại xô động đó đã tác động không ít vào thi phẩm. TBH được làm trong khoảng thời gian nước Việt Nam nằm trong “một cổ hai tròng” Pháp – Nhật và nằm trong thế chiến thứ hai (1939 – 1945). Khoảng thời gian đó, TT đã chứng kiến những cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương bị thực dân Pháp tắm trong biển máu. TT còn chứng kiến ngày 28/01/1941, Bác Hồ từ Trung Quốc về nước nhìn lại kết quả bản ”Luận cương chính trị” theo khuynh hướng “tả khuynh” soạn thảo từ 1930 ảnh hưởng tới chủ trương “thanh Đảng” của xứ uỷ Trung Kỳ: ”Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” năm 1931 – 1941 mà ”vẫn chưa có biện pháp cụ thể về tổ chức và chính sách” (Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3, – Nxb KHXH).
Kết qủa: ”Tiếng đời xô động, tiếng hờn câm” trong bốn câu cuối của TBH được HT – HC ”cắt xén tài tình” mà NHQ đã ngợi ca.
Không trách HT – HC vì văn học thời bấy giờ với quan điểm thơ ca phải phục vụ cách mạng nên trong TBH chỉ còn lại hình ảnh ”ly khách” mà người ta cho rằng những tính cách quyết liệt rất phù hợp cả thời xưa (Kinh Kha tráng sĩ), cả thời nay (người chiến sĩ, trượng phu, nam nhi…).
Hình tượng ly khách phù hợp ấy đã được các Giáo sư, Tiến sĩ các nhà Nghiên cứu bình luận, phân tích hết lòng ca ngợi cái ý chí dứt áo ra đi theo tiếng gọi non sông với khúc nhạc ”Lên đàng” của Lưu Hữu Phước, theo bước chân ”Tiến quân ca” của Văn Cao. Tiếc thay, cả đến ngàn năm sau, có ”tri âm, tri kỷ” gì với TBH, có thương yêu TT gì thì cũng chỉ hiểu ngần ấy mà thôi!
Giữa những bề bộn đời thường, chính trị rối ren thêm mất đi một tình cảm mà ta có thể hình dung từ trong: “Ngậm ngùi cố sự” của TT trong VNTNTCTT:
Lảo đảo năm năm lệ mấy hàng
Ngậm ngùi cố sự, bóng lưu quang.
Cuối thu mưa nát lòng dâu biển
Ngày muộn chuông đau chuyện đá vàng.
Chán ngắt gia tình, sầu ngất ngất,
Già teo thân thế, hận mang mang
Thẹn cùng trời đất mòn xuôi ngược,
Chí lớn không đầy nửa tấc ngang.
(Tiểu Thuyết Thứ Bảy)
Bài thơ này không ghi ngày tháng và nhiều chỗ khác với bản trong Thơ Thâm Tâm của Mã Giang Lân (năm canh/năm năm; dâu bể/dâu biển; một tấc gang/nửa tấc gang) và các dấu chấm phẩy bài có, bài không. Đây là bài thơ thất ngôn bát cú nên 8 câu này có “Đề. Thực. Luận. Kết” nên không thể tách 2 đoạn như NTL, MGL tách như trên mà phải kết lại với nhau.
Đây là bài thơ duy nhất mà TT nhắc đến chuyện nhân duyên, vợ chồng qua “ngày muộn chuông đau chuyện đá vàng”. Hẳn là TT làm trước khi lập gia đình năm 1945.
Thi nhân này ”phẫn chí” không nghĩ đến chuyện ”đăng ký” một xuất trong đơn vị thì đợi chừng nào? TT mang cái ”chí lớn không đầy nửa tấc gang” như đã tự cười mình đến với cách mạng như để tự ”giải phóng” mình thoát khỏi nỗi đau đã có. Đó cũng chỉ là một trong những yếu tố thúc đẩy TT đi Vệ quốc quân. Chí phá bỏ thực tại bằng mộng giang hồ chấm dứt, TT thay nó bằng chiếc nón cối anh bộ đội và đôi dép lốp.
Ngoài sự lựa chọn đó ra, còn vì động lực to lớn thúc đẩy nữa chính là “chuyện đá vàng” để lại trong lòng chàng nghệ sĩ vết thương lòng đau xót. Tình yêu tan vỡ đã làm TT đau, nản chí, mất mặt nam nhi quá! Không đi lính thì đi đâu cho ”hạ hoả’? Cơ hội có. Động cơ có. TT… nhảy dù vào bộ đội nhưng vì vốn ”có duyên văn ngộ sớm” như Vũ Cao nói nên TT được ngồi vào ghế ”Thư ký toà soạn báo vệ quốc quân” - ”Một lực lượng to lớn chỉ có tiến không thoái”! (LSVN, sđd). Giọng thơ lãng mạn đầy âm hưởng thơ cổ phong Trung Quốc của TT đã chuyển sang giọng tuyên truyền cách mạng cho hợp với tình hình bấy giờ như các nhà thơ nổi lên từ “Thơ Mới” như Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Thế Lữ…
Nhưng kỳ quặc, thơ TT dường như ”chững” lại với mỗi bài ca ngợi Việt Bắc trong ”Chiều mưa đường số 5” hòa với “Việt Bắc” của Tố Hữu, đầy nhiệt tình cách mạng “đâu rồi anh du kích… tiếng cười reo khúc khích, đón chiến sĩ quay về” còn lại tất cả hình như ”vô hồn”. Cuối cùng cũng chỉ có TBH và một trong những bài thơ ký T.T.Kh hay Thâm Tâm (đang chờ giải mã) là đỉnh cao của thơ TT mang nét buồn thời đại với những thương đau cho cuộc tình đi không trở lại là ‘’sống” mà thôi!
Có thể nói: Không có thời đại đó, không có một tình yêu đổ vỡ đó, TT không có TBH. Ta không có thi phẩm chỉ bốn câu đầu đã bất hủ này. Một cách hơi tàn nhẫn: Cám ơn Kh đã không chọn TT.
TT đi vào đơn vị cho quên hết thơ mình ngày trước nhưng nghe lại thơ mình với ngày tháng nào đã ra đi, TT bật khóc! Tức là với TT hay những ai đã từng có những tháng ngày da diết nhớ thương từng con đường ngập nắng, nhớ bàn tay nghe ngóng tin sang là những gì đã ăn vào máu thịt không rứt bỏ được bao giờ. Kh chính là nỗi đau máu thịt của TT mất rồi!
Nhà thơ Hà Huyền Chi trong bài thơ “Anh thèm cơn lú lẫn” thú thật:
Anh thèm cơn lú lẫn
Quên cuộc đời, trừ em.
Thiết tưởng dùng nó cho TT của Kh không hẳn không đúng!
TT đi theo cách mạng trong ”tiếng đời xô động” đã nằm xuống tại Cao Bằng ngày 18/8/1950 nhưng không mang theo bài thơ ”Tống biệt” và anh đã gởi lại cho đời một cái tên với ”Huyền thoại T.T.Kh” như ”còn một chút gì để nhớ để thương”.
Nỗi đau ngày trước của TT chính là nỗi đau “thất bại trên tình trường” này! Xưa nay, “anh hùng nan quá mỹ nhân quan” đều thế cả!
2. Nhà thơ bí ẩn T.T. Kh với những bài thơ làm điêu đứng bao người:
a. T.T. Kh và những dòng thơ viết cho “người ấy”:
- T.T.Kh xuất hiện khi nào?
HT – HC trong TNVN, mục T.T.KH tr 360, ghi thật vắn tắt: “Hồi tháng 9 -1937, Tiểu thuyết thứ bảy đăng một truyện ngắn của Ô. Thanh Châu: ‘Hoa ti gôn’. Ít ngày sau, tòa báo nhận được một bài thơ nhan đề ‘Bài thơ thứ nhất’, rồi lại nhận được một bài thơ nữa: ‘Hai sắc hoa ti gôn’. Hai bài ấy đều ký tên T.T. Kh. và đều một nét chữ run run“.
NTL ghi kỹ lưỡng hơn dù chẳng biết ông lấy từ nguồn nào: “Vào ngày 27 tháng 9 năm 1937, trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 174 xuất bản tại Hà Nội có đăng một tiểu thuyết tựa đề: Hoa ty gôn, tác giả là ông Thanh Châu… Sau khi báo phát hành chẳng bao lâu, tòa soạn nhận được từ người thiếu phụ trạc 20 tuổi, hình dáng bé nhỏ, vẻ thùy mị, nét mặt u buồn, mang đến một phong bì dán kín gửi cho ông chủ bút, trong ấy chỉ gọn có bài thơ Hai sắc hoa ty gôn dưới ký tên T.T.Kh. Khi người thiếu phụ đi rồi, tòa soạn xem thơ nhận thấy thi bản ghi lại cảnh tình đáng thương tâm, nhưng người ta chỉ nhớ lờ mờ hình ảnh thiếu phụ. Có thể nói đây là lần thứ nhất thiếu phụ xuất hiện và cũng là lần cuối cùng. Rồi từ đó, khóa chặt tung tích của ‘người con gái vườn Thanh’ ” (sđd tr 398).
Hai cuốn sách, bốn tác giả, 8 con mắt, 8 cái tai mà nhìn, nghe cũng trời ơi, đất hỡi!
HT – HC nào có nói tới cô gái gì? Nhưng lòi ra “nét chữ run run”. Ông NTL nhiều chuyện hơn, thêm mắm “thiếu phụ… 20 tuổi”! thêm muối “hình dáng bé nhỏ, vẻ thùy mị, nét mặt u buồn” mà kêu là “chỉ nhớ lờ mờ“. Nhớ lờ mờ mà lại có thể tả chừng ấy!
Đã vậy, NTL cung cấp “nhân chứng” biết T.T.Kh là ai như ông Giang Tử, Thạch Hồ, Y Châu, Thế Nguyên, Lê Công Tâm, Phạm Trọng Tuy, Nguyễn Tố… từ trang 428 đến 432. Những người này đã đến với sách NTL như thế nào và họ “nhân chứng” được “tích sự” gì để hóa giải TT thực, giả và T.T.Kh là ai? Chúng ta sẽ lần lượt xét tới.
Chúng ta cũng “xóa” thông tin “cà pháo” của Anh Đào (NTL, sđd tr 398-399) về việc T.T.Kh xuất hiện trên Hà Nội Báo năm 1936 bằng HSHTG ngày 15-4-36 và BTTN ngày 3-6-36?! HSHTG lấy cảm hứng từ nguồn truyện ngắn của Thanh Châu. Chết nỗi! Thời kỳ này, Thanh Châu nào đã viết truyện ngắn “Hoa Ty-Gôn”?
Tác hại: Những người thích núp bóng từ bi cứ thế mà “copy” ra thành loạn văn chương. Chúng ta cứ bấm vào từ khóa Thâm Thâm hay T.T.Kh và tên các bài thơ thì sẽ nhảy ra hằm bà lằn những bài viết kiểu này y như họ là tác giả vậy, không có nguồn, thảy đầy mạng, đầy sách! “Đạo văn” đó! Ngay cả cuốn VNKNQH của NTK có những chi tiết: “cô này chừng 20 tuổi, vóc dáng bé nhỏ, đầy vẻ u buồn, và phong thư cô gửi chỉ vỏn vẹn có bài thơ Hai sắc hoa Ty-gôn” cũng lấy từ nguồn nào mà không trích dẫn nếu không từ VNTNTC của NTL, NHT quyển thượng năm 1968?
Không ai biết thêm được gì hơn ngoài những suy diễn tràng giang đại hải chẳng trúng trật vào đâu! Người ta tìm T.T. Kh như “thủy trung lao nguyệt – mò trăng đáy nước”!
- Vai trò của TT trong TTTB?
Theo NTL, thiếu phụ 20 tuổi đích thân mang bao thư gửi cho ông chủ bút bài thơ Hai sắc hoa ti gôn, tòa soạn xem rõ ràng. Vậy mà… lòi ra chuyện “Suýt nữa không có Hai sắc hoa ti gôn” của Anh Chi kể chuyện Ngọc Dao (nguoidaibieu.com.vn) thư ký TTTB lúc bấy giờ là người “có công” nhặt bài thơ vận mệnh đó lên từ… thùng rác! Người hùng Vũ Bằng theo Văn Giá trong bài “Thâm Tâm một thời và mãi mãi” (webđd): “Nhà văn Vũ Bằng kể lại: Khi đương giữ chân thư ký toà soạn cho tờ Tiểu thuyết thứ bẩy quãng năm 1941- 1943, ông thấy gia cảnh bạn mình túng thiếu, nên thường ưu tiên cho đăng của Thâm Tâm hai bài trong một số (hoặc một truyện, một thơ, hoặc một truyện, một kịch với hai bút danh: Thâm Tâm và Tuấn Trình) để bạn mình có chút đỉnh nhuận bút. Bây giờ nếu ai có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với tờ Tiểu thuyết thứ bẩy vào quãng thời gian này sẽ thấy liên tục trên các số báo có tác phẩm của Thâm Tâm với hai bút danh như vậy”. Vậy, ông Ngọc Dao thôi làm Thư ký cho TTTB năm 1941 để Vũ Bằng lên thay “làm phước” giúp TT? Không nhân chứng nào có mặt còn sống để chứng nhận hai thông tin “Vịt con” (bút hiệu Vũ Bằng) này cả!
TT chỉ là người viết bài được chăng hay chớ thôi ư? Vậy, cuốn sách của NTK sai lầm chăng khi cho TT là người có quyền trong tòa soạn TTTB: “Nhận được nhiều thư từ độc giả tò mò chú ý hỏi han, Thâm Tâm lần lượt cho đăng các bài thơ: Gửi T.T.KH., Dang dở, Màu máu Ty-gôn…” (sđd tr 29) “Với Hai sắc hoa Ty-gôn, bạn đọc suốt Nam-Trung-Bắc nhiều người đã gửi thư về tòa soạn báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy. Hỏi thăm nàng T.T.KH. Xin ảnh. Với tất cả tình cảm mến thương. Tội nghiệp Thâm Tâm và Thanh Châu luôn phải thay nhau trả lời. Họ thay phiên nhau tìm cách chống chế sao cho thật xuôi. Một cách ‘nói dối vô hại’ như lời ai kia đã bảo. Riêng ông Vũ Đình Long thì thích thú ra mặt…” (tr 75).
Vậy Thanh Châu và TT lúc ấy làm cái chức gì mà có quyền hạn “thay nhau tìm cách chống chế”?, “cho đăng bài?”?
Chỉ xét về phần việc họa sĩ vẽ ký họa, vẽ bìa của TT, vai trò của TT trong TTTB không đơn giản chỉ là người chờ Vũ Bằng cho đăng bài để “có thêm chút đỉnh nhuận bút”?
Chúng ta thống nhất “bác” tin “báo vịt” (tờ báo Vũ Bằng cộng tác) này của Vũ Bằng.
- Thời gian lộn xộn:
HT – HC có chút… “lẩn thẩn” khi chẳng cung cấp được thông tin nào có giá trị vật chứng và nhân chứng hơn khi viết về T.T.Kh!
Thanh Châu - người trực tiếp làm việc cùng TT trên TTTB thì “giật sốt” khi cung cấp thông tin có tới hai bức thư từ T.T.Kh: trong “Những cánh hoa tim” viết vào mùa thu 1939 đăng trên TTTB: “Nhưng điều mà tôi lấy làm sung sướng nhất là cùng dạo ấy, ở tòa soạn nhận được một bài thơ đầu của bà T.T.Kh. kèm với một bức thư xin chữ ký của tôi. Bức thư giảng rõ vì sao nảy ra thi hứng viết nên thơ” (sđd tr 166).
Ta thấy nực cười: NTL, HT – HC đều không nói tới hai bức thư. Thanh Châu nói có. HT – HC và Thanh Châu không nói tới sự xuất hiện thiếu phụ 20 tuổi, NTL, NTK nói có. Ông Ngọc Dao và ông Vũ Bằng từng nhận mình là “thư ký tòa soạn TTTB” ở đâu? Sao chẳng nói tới bức thư thứ hai của T.T.Kh gửi kèm với bức thư có bài thơ đầu tiên? Ngay cả bài thơ thứ nhất của T.T.Kh, HT – HC cho là “Bài thơ thứ nhất” thì Thanh Châu, NTK, NTL cho là bài thơ thứ nhì. Lộn xộn như tơ vò rối rắm trăm đường cũng từ những người thích gây tin giựt gân mà ra cả!
Nếu Thanh Châu từ 1939 đã có nói tới T.T.Kh viết thư xin chữ ký mình và ông còn giảng giải vì sao hứng làm thơ thì người đó có phải là người yêu Thanh Châu, bà Trần Thị Vân Chung như Thế Nhật năm 1994 khẳng định là T.T.Kh không? Chúng ta thử đặt mình vào T.T.Kh và Thanh Châu là người yêu của nhau xem? Thật là vô duyên tập thứ mấy không biết nếu chúng ta làm cái trò mèo chuột trên thi đàn như vậy? Người yêu đi xin chữ ký người yêu sau khi lấy chồng? Người yêu đọc truyện người yêu rồi làm thơ? Làm thơ xong gởi tới chỗ người yêu đăng báo? Đăng báo rồi còn viết thư cắt nghĩa với người yêu là tại sao mình hứng làm thơ? Thật là “dư cơm, thừa cháo“! Một tình yêu tầm thường. Một tình yêu con nít! Một kiểu yêu tâm thần hết thuốc chữa! Nhưng quy lại tất cả chỉ là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Ngón tay dài, cụt lận lẹo lương tri” của thiên hạ thôi!
- Thời gian TTTB đăng truyện ngắn Hoa Ti-Gôn của Thanh Châu?
HT- HC: “Hoa Ti-Gôn” của Thanh Châu đăng tháng 9/ 1937.
Thế Nhật, NTK: Ghi “Tháng 7/1937″.
NTL: “Vào ngày 27 tháng 9 năm 1937… số 174″.
Nguồn nào cũng không có bảo chứng! Chúng ta phải vay mượn “Lịch vạn niên” cùng căn cứ nội dung trong tác phẩm.
Giả sử cho là ngày 27/9/1937 thì khi T.T.Kh xuất hiện với HSHTG đăng ngày 30/10/1937 cũng “ngốn” mất tháng trời. Vậy mà HT – HC tỉnh rụi bảo “Ít ngày sau“? Còn Thanh Châu thì bảo “cùng dạo ấy”?! NTK cho là “Chỉ ít ngày sau khi số báo phát hành” tức là trong vòng một tuần trở lại vì TTTB ra ngày thứ bảy mà thôi. Ta tin nguồn nào? Tin ai thì thời gian ba bốn tháng với một tháng không thể nói là thời gian ngắn “ít ngày sau” hay “cùng dạo ấy” hoặc “chỉ ít ngày sau” được. Tai hại là những người đi sau như “thợ bốc vác chữ – thợ phu chữ” cứ thế mà “phang” tới chứ chẳng chịu suy nghĩ câu nào thật, lời nào chưa chính xác?
Thống nhất bằng cách nào? Chúng ta xét tới nguồn cảm hứng của Thanh Châu từ hoa Ti – Gôn.
Đặc điểm hoa Ti-Gôn:
Lê Văn Lân: Trong bài “Đặc khảo về loài những ‘Loài hoa tim rướm máu’ ” (nguoi-viet.com) ghi rõ: “Ti gôn là loại hoa leo dàn và có màu đỏ tươi… 1- Hoa ti gôn có tên Mỹ thông dụng là CORAL VINE, thường bán ở các Nursery tại những tiểu bang miền Nam Hoa kỳ, nhất là Texas nóng bức, lá tươi xanh luôn vì tigôn ưa thích nắng chói chang. Tên khoa học là ANTIGONON LEPTOSUS. Đây là một loại dây leo cho ra hoa rất dài mùa trong năm, mọc mau, lan nhanh và che kín dàn và hàng rào. 2- Thời gian ra hoa nhiều: cuối hè đến thu. 3- Kích thước của cây dài 30 đến 40 feet, mọc rất nhanh…”.
Thanh Châu đã ghi hồi ức trong “Những cánh hoa tim” về “một mùa thu cũ” tức mùa thu viết truyện Hoa Ti-Gôn: “Nhắc cho người ta nghĩ đến mùa thu, có lẽ là thứ hoa ‘ti-gôn’ không hiếm đó… buổi chiều lạnh chớm thu, đã thấy thoáng hiện ra trong đầu… Phút này rất có lợi cho sự viết văn… nhưng còn đương mệt, nên tôi chưa muốn làm việc vội…”. Khi gặp cô gái gỡ hoa Ti-Gôn, Thanh Châu kể: “Tối hôm đó, tôi viết trong cơn sốt rét. Và hai tuần sau, cái truyện ngắn ‘Hoa ti-gôn’ của tôi đã in trên mặt báo này” (sđd tr 164-165).
Căn cứ theo đặc điểm hoa Ti-Gôn ở Hà Nội thời 1937, căn cứ vào hồi ức viết truyện của Thanh Châu, chúng ta nhận ra: Thời gian: Chớm thu là tháng tám. Hai tuần sau là giữa và cuối tháng tám. Hoa Ti-Gôn như Lê Văn Lân nghiên cứu trên ra hoa từ “cuối hè đến thu”. Vậy là hoa cũng sắp tàn. Nếu Hữu Thỉnh nhận ra “chớm thu” trong bài “Sang thu” với “hương ổi/ phả vào trong gió se… Có đám mây mùa hạ. Vắt nửa mình sang thu” thì Nguyễn Phan Hách nhận chớm thu qua hương “Hoa Sữa”: “Hôm ấy mùa thu anh vẫn nhớ. Hoa sữa thơm ngây ngất bên hồ. Tình yêu đầu mang hương sắc mùa thu. Mùi hoa sữa trong áo em và mái tóc”. Thanh Châu nhận ra chớm thu qua ba sắc màu hoa Ti-gôn “giữa đám lá xanh non”. Lâu hơn nữa là hoa Ti-Gôn chết hết!
Thanh Châu đã hồi ức trong “Những cánh hoa tim” năm 1939 là ông đã đi dạo Hà Nội vào mùa thu 1937: “trong buổi sáng tinh sương của mùa thu này” và ông hồi ức “Một mùa thu cũ, tôi đã ngắt những bông hoa ấy…. Tối hôm đó, tôi viết trong cơn sốt rét. Và hai tuần sau, cái truyện ngắn ‘Hoa Ti-gôn’ của tôi đã in trên mặt báo này…”.
Mở “Lịch Sách Vạn Niên“ (Hồ Thị Lạc dịch, Nxb VHDT – 1997), chúng ta sẽ thấy tháng 7 năm 1937 là tháng “hạ chí hạ” (giữa hạ) không là tháng mùa thu. Ngày 5 tháng 8 năm 1937 mới là ngày “lập thu”. Mùa thu năm 1937 kéo dài từ 5 tháng 8 đến 29 tháng 9 là hết (thu phân hạ) để chuyển qua ngày 1 tháng 10 là mùa đông (lập đông hàn lộ thượng).
Do đó, chúng ta loại bỏ thông tin của Thế Nhật và NTK hay những bài viết cho truyện Thanh Châu đăng vào tháng 7. Trong tháng 8 mùa thu (coi như chỉ có hơn 3 tuần), Thanh Châu có thể “thai nghén” truyện. Hai tuần sau mới đăng tức cũng đã vào đầu tháng 9 năm 1937. Ngày chính xác của truyện ngắn Thanh Châu đăng sẽ được tính trên 4 ngày thứ bảy của tháng: 4. 11. 18. 25. Vì TTTB chỉ ra báo vào ngày thứ bảy. Tháng 9 mà tới ngày 23 như NTL ghi thì hoa Ti-Gôn bắt đầu háp có thể đưa về “Cuối thu” của Hàn Mặc Tử: “Cây gì mảnh khảnh run cầm cập. Điềm báo thu vàng gầy xác xơ. Thu héo nấc thành những tiếng khô” mất rồi! Với nước ngoài có 4 mùa rõ rệt thì thu chớm từ ngày 8 tháng tám đến 8 tháng 11. Ở Việt Nam có hai mùa nóng, lạnh rõ rệt nên thu đến từ tháng 8 và kết thúc cuối tháng 9. Hoa Ti-Gôn mau tàn không thể sống đến hết tháng 9! Ngày 23 tháng 7 như NTL ghi, đã không phải là ngày thứ bảy mà là ngày thứ năm. TTTB ra ngày thứ bảy, bắt buộc, những tác phẩm muốn chính xác cả ngày ngoài tháng, năm, thì ngày đó phải rớt vào ngày thứ bảy. Chúng ta thấy rất rõ những bài thơ T.T.Kh: HSHTG đăng ngày 30 tháng 9 năm 1937, BTTN đăng ngày 20 tháng 11 năm 1937 và BTCC đăng ngày 23 tháng 7 năm 1938 đều rớt vào ngày thứ bảy là ngày TTTB phát hành.
Kết luận: Truyện ngắn “Hoa Ti-Gôn” của Thanh Châu đăng trên TTTB vào thứ bảy, ngày 4 tháng 9 năm 1937.
Nguồn động lực nào cho Thanh Châu viết truyện ngắn “Hoa Ti-Gôn”?
Chỉ là những cánh hoa Ti-Gôn như theo lời kể của ông trong “Những cánh hoa tim” (NTK, sđd tr 163): ông chỉ là xúc động trước những cánh Ti-Gôn mọc đầy Hà Nội: “Bỗng nhiên, nhìn những cánh hoa đỏ trong tay, tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu. Tôi nghĩ đến những đoạn tình duyên đau khổ ở đời… Phút này rất có lợi cho sự viết văn“.
Nhân vật Lê Chất trong truyện “Hoa Ti-Gôn” là thật hay hư cấu?:
Trước hết, chúng ta cần hiểu nhân vật truyện ngắn: Nhân vật ngoài đời dù có thật đi nữa, khi đưa vào thể loại truyện, nhân vật đó được thể loại này khoác áo nhân vật hư cấu của tác giả.
Nhân vật trong truyện ngắn của Thanh Châu là họa sư Lê Chất nhưng nhân vật mà Thanh Châu muốn gặp ở làng Mọc trong hồi ức “Những cánh hoa tim” là người thật, họa sư Lê: “Tôi sẽ về quê hoạ sĩ Lê chơi. Họa sĩ là con thứ một vị quan to – từng làm Khâm Sai – xứ Bắc Kỳ” (Không biết có phải là Lê Khâm hay không?).
Như vậy, họa sĩ Thâm Tâm – Tuấn Trình chẳng liên can gì đến họa sĩ Lê Chất của Thanh Châu, càng không liên can gì đến nhân thân Thanh Châu hóa thân vào nhân vật họa sư Lê Chất. Nếu chúng ta không nắm được ý này, chúng ta dễ sa vào ngộ nhận Thanh Châu “biết chuyện tình TT” và giữa Thanh Châu và T.T.Kh có mối liên quan “tình xưa, nghĩa cũ“.
Hiểu được nội dung hồi ức “Những cánh hoa tim” năm 1939 của Thanh Châu, chúng ta mới bác bỏ những bài viết cho rằng Thanh Châu muốn an ủi TT nên viết truyện này như Hồ Thông kể trong sách NTK. Đồng thời bác bỏ sự ngộ nhận cử chỉ của Thanh Châu khi “ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng nó đi trước một giàn hoa” là hờn Trần Thị Vân Chung – T.T.Kh của Thế Nhật.
Theo nghiên cứu của Lê Văn Lân (webđd) hành động vò nát hoa này là một trò chơi vì: “Một đặc điểm bí ẩn của hoa tim này là trong lòng hoa, dưới cánh hoa nhìn bên ngoài giống quả tim, nếu ta lấy tay vạch ra, sẽ thấy thêm một vòng cánh hoa trong có tua nhị, trông hệt như một hình búp bê nhỏ xíu mặc cái váy trắng rộng. Hoa này rất dễ kiếm mua trong các Nursery ở Mỹ, nở suốt mùa hè, chịu nắng dịu và có đặc điểm là hoa rất ít bị sâu và bịnh nên bền bỉ…như ý nghĩa quả tim chung tình khắc khoải với thời gian. Một trò chơi lý thú mà người ta hay thử là lấy cánh hoa này vò ra, nếu hoa vẫn còn đỏ là ‘tình ta không ngừng như thác đổ,’ còn cánh hoa bầm tím thì đúng là một:… ‘kẻ vô duyên vẫn cứ mong. Trăm năm ôm mãi khối tình không, Trọn đời làm kẻ đưa thuyền khách. Thuyền chẩy, trơ vơ đứng với sông”.
Xuân Diệu cũng có thói quen vò hoa này: “Có khi vò một cành hoa. Bỗng lên hương mới như là đậm sâu” trong “Đánh em đau“. Đánh hay Vò cũng là một cách làm cho mình được hả lòng, mát dạ, trút hơi… Với Thanh Châu thì sao, ông giải thích rõ: “Nhưng thực bấy giờ tôi chẳng có tâm địa của một Beaudelaire ốm yếu khi thấy cảnh khỏe mạnh của hoa lá tốt mà bực mình đến đập vào hoa cho tơi tả để báo thù Tạo Hóa… Sự tàn ác vô tình ấy đã đem lại cho ‘nhà văn’ một tài liệu quý để viết nên vài trang tiểu thuyết…”.
Nghĩa là không có bất kỳ chi tiết nào trong truyện ngắn của Thanh Châu chứng minh Thanh Châu viết về TT hay viết về mình với T.T.Kh – Vân Chung nào đó cả! Chúng ta sẽ thấy rõ điều đó qua từng nhân vật.
Nhân vật Mai Hạnh?
Nhân vật Mai Hạnh trong truyện hư cấu từ nhân vật có thật: “Buổi chiều xuống chầm chậm trong khi tôi bước trên những con đường nhỏ trong làng. Một vài nóc nhà mới lợp ngói đỏ nổi lên giữa những khoảnh vườn cây xanh tốt. Người Hà – Nội đã bảo nhau về cái làng xinh đẹp này xây nhiều biệt thự nghỉ ngơi. Tôi đã ngửi thấy nhiều hương hoa quý quen quen lúc đi qua những thửa vườn đất rộng có bờ rào cây cao rậm. Thế rồi, trong một cái vườn như vừa nói đó, tôi đã trông thấy một bóng người con gái hái hoa. Đó là một thiếu nữ độ 17, 18 tuổi. Nàng đứng trên một chiếc ghế gỗ, với tay lên giàn nứa, đương bận gỡ những giây hoa ‘ti-gôn’ đỏ. Tôi không trông rõ mặt nàng, nhưng chỉ để ý đến hai cánh tay trắng để trần trên đám lá xanh, và suối tóc như đêm chảy sau lưng.
Tối hôm đó, tôi viết trong cơn sốt rét. Và hai tuần sau, cái truyện ngắn ‘Hoa ti-gôn’ của tôi đã in trên mặt báo này. Truyện có gì đâu: ‘Một họa sĩ đi vẽ về, qua làng Mọc, gặp một thiếu nữ hái hoa như tôi gặp trên kia… Họa sĩ dừng lại ngắm, nhận ra vẻ đẹp khác thường trên mặt người thiếu nữ, ghi vài nét vào cuốn sổ tay, rồi trở ra về với tấm lòng yêu viển vông của tuổi hai mươi. Nhưng một lần sau nữa đến chỗ cũ, họa sĩ thấy mất bóng người hôm trước, cửa nhà vắng vẻ, hình như không có ai ở nữa, trong vườn chỉ có một ông già cuốc cỏ lom khom…” (Những cánh hoa tim, sđd tr 165).
Mở đầu hồi ức, đập vào mắt người đọc là những cô gái hàng hoa Hà Nội: “Có ai để ý đến những cô hàng hoa ở các vườn làng Hữu Tiệp, Ngọc Hà, Yên Phụ v.v… trong buổi sáng tinh sương của mùa thu, rủ nhau họp chợ bên Hồ Kiếm? Trong những rổ hoa tươi thắm, rực rỡ mùa xuân chất trên xe của các cô, có ai để ý đến một thứ hoa của cây leo, mỏng mảnh và nhẹ nhàng như giấy, dáng hoa chum chúm như một thứ quả khi chưa xòe cánh?
Hơn một loài hoa đã ‘nở’ rồi!
Bên bờ giậu sắt trước cửa những biệt thự lặng im của các phố tây, trên giàn nứa trước mái hiên, bên cửa sổ của mọi nhà trong Hà-Nội, những dây hoa ‘ti-gôn’ đã điểm màu trắng, màu hồng, màu đỏ vào giữa đám lá xanh non. Và sáng sáng, có những thiếu nữ vui như bướm, với những bàn tay nhẹ, gỡ dần những dây hoa ấy để thay cho những hoa hôm trước trong phòng khách đã tàn (Vì loài hoa ấy chóng tàn).
Báo trước mùa hè đã có những hoa huệ tây trắng (hay loa kèn) làm trẻ thêm cho Hà-Nội không già. Nhắc cho người ta nghĩ đến mùa thu, có lẽ là thứ hoa ‘ti-gôn’ không hiếm đó…”.
Thanh Châu đã từ cô gái gỡ hoa làng Mọc mà dựng lên nhân vật Mai Hạnh. Chỉ đơn giản có thế. Nhân vật Mai Hạnh này không phải là cái bóng của T.T.Kh hay cô Khánh hoặc Trần Thị Vân Chung. Bởi vì những người này, thực tế, chẳng có ai đi bán hàng hoa, cũng chẳng có ai từng đứng gỡ dây hoa leo Ti-Gôn và chẳng có ai “tình không cũ mà cũng rủ tới” như nhân vật Mai Hạnh, cũng không có ai… chịu chết không trăn trối, chết không kịp nói như Mai Hạnh và cũng chẳng có ông Thâm Tâm hay Thanh Châu nào đi mua hoa Ti-Gôn để viếng mộ… các bà! Không ai tranh nhau với cái bóng người khác mà tưởng của mình là đấy!
Như vậy, nhân vật Mai Hạnh trong truyện ngắn “Hoa Ti-Gôn” chẳng “quen biết, bà con” gì với cô Trần Thị Khánh hay bút hiệu T.T.Kh hoặc Trần Thị Vân Chung. Chuyện truyện giống chuyện đời cũng chẳng có gì lạ. Chuyện nhà văn bị hăm doạ vì người ta thấy cuộc đời mình bị phơi trên trang sách tác giả cũng là thường tình. Các còng số 8 và nhà tù phơi lịch cũng không thiếu chỗ cho những nhà văn, nhà thơ có những nhân vật trong tác phẩm của mình… là cái bóng của kẻ khác “có tật giật mình“. Nhà văn đoạt giải Nobel văn chương 2006, Orhan Pamuk vẫn bị người nước mình hăm giết vì tội chỉ trích quân đội cản trở tiến trình dân chủ của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ (Turky) là chuyện thường.
- Nguyên nhân nào Thanh Châu viết hồi ức “Những cánh hoa tim“?
Truyện ngắn “Hoa Ti-Gôn” của Thanh Châu đăng trên TTTB số 174 vào thứ bảy, ngày 4/ 9/1937. Hơn tháng sau, tòa soạn báo TTTB của Vũ Đình Long nhận được hai bức thư có bài thơ HSHTG ký T.T.Kh và thư của T.T.Kh xin chữ ký của Thanh Châu. Chúng ta bác bỏ thời gian “ít ngày sau” của HT – HC, “chẳng bao lâu” của NTL và “cùng dạo ấy” của Thanh Châu…
HSHTG được đăng trên TTTB số 179 thứ bảy, ngày 30/10/1937 với nguồn cảm hứng từ truyện ngắn của Thanh Châu. Ông hồi ức lại tâm trạng mình: “Truyện có gì đâu? Nhưng tôi viết với tất cả cảm giác trong trẻo, chân thành, tươi tốt đã có trong buổi chiều thu ấy, sau buổi đi chơi trong làng Mọc. Có lẽ vì thế, mà cách đấy ít hôm, một buổi trưa, có hai người đàn bà đến thăm tôi trong lúc tôi đi vắng, và đã để lại trên bàn những cánh hoa trong truyện, những người đó tôi đoán, là đã lấy làm bằng lòng câu chuyện tình ảm đạm kia, mà những cánh hoa để lại không phải ngoài cái nghĩa thưởng công cho người đã viết (Dẫu sao tôi cũng có lời cám ơn hai người không trở lại ấy trên mặt báo này rồi)
Nhưng điều tôi sung sướng nhất là cùng dạo ấy, ở tòa soạn nhận được một bài thơ đầu của bà T.T.Kh. kèm với một bức thư xin chữ ký của tôi…
Tôi đọc bài thơ đầu của T.T.Kh. với một sự cảm động thực thà. Tôi cho là những lời thơ xuất phát tự tâm hồn, giản dị nhẹ nhàng và chân thật ấy còn đẹp hơn cả những lời thơ đẹp nhất của các Desbordes, Valmores hay Rosemonde Gérard của Pháp nữa. Và tôi thấy chán cái nghề viết tiểu thuyết. Bởi tôi nghĩ: cùng một mối cảm mà T.T.Kh có thể viết nên những vần réo rắt mãi trong tâm can người như vậy được, còn câu chuyện của tôi, có khéo kể lắm, thì rồi người ta đọc qua một lần cũng sẽ quên đi. Tôi chỉ có thể diễn bày tâm trạng người đời bằng tiếng nói của người thường. Còn thi sĩ, họ nói cái thứ tiếng riêng của ‘thiên thần’ thì phải ‘chiếm lòng’ người hơn chứ…”.
Trước có T.T.Kh “xin chữ ký“, sau, có hai cô gái đến nhà “tặng hoa”, tác giả nào trong tâm trạng ấy mà chẳng “sướng điên”? Nhưng nghịch nỗi, so với thơ T.T.Kh, Thanh Châu lại cảm thấy mình “non tay nghề” hơn. Ông chịu lùi bước. Vì vừa là người sung sướng vừa phục lăn cái tiếng nói “thiên thần” riêng của thơ T.T.Kh, Thanh Châu đã hồi ức “Những cánh hoa tim” và đem câu thơ “thiên thần” của T.T.Kh “Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ” là câu đầy đủ ý nghĩa nhất về loại hoa dây leo chóng tàn này trong bài HSHTG để trước bài hồi ức của mình một cách trân trọng. Chính hoa tim ấy mang lại cho ông cảm giác “sung sướng”, ông mới trịnh trọng nó như thế chứ. Thành quả lao động chất xám của ông đã được trả công xứng đáng. Ông tự hào mà nhận là điều hiển nhiên. Hiểu rõ tâm lý từ chi tiết này, chúng ta mới không rơi vào ngộ nhận ông có tình ý gì với T.T.Kh nên mới lấy thơ T.T.Kh để lên đầu mà… đạp đoạn văn của Khái Hưng – Nhất Linh trong “Gánh hàng hoa” xuống dưới. Theo thứ tự, cái nào ra trước thì lùi xuống cho cái ra sau! Bài vở vi tính, trên mạng cũng thế mà. Ngay cả khi chúng ta đánh máy vi tính, đánh máy chữ, có phải con chữ này ra đã… hất con chữ nọ qua một bên không? Có phải hàng mới đánh, đứng trước hàng đánh rồi không?
Còn ý nghĩa câu trong “Gánh hàng hoa” là hoa Ti-Gôn, trong HSHTG cũng là hoa Ti-Gôn. Thanh Châu viết hoa Ti-Gôn, gặp hoa Ti-Gôn không “vớt” vào thì vớt cái gì? Người hứng cá, câu cá, câu mực, không câu cá, câu mực không lẽ đi câu… Khủng Long! Kẻ săn nai, không…nai lưng săn lại đi săn… cá mập?
Tóm lại: Nhân vật trong truyện Thanh Châu chẳng giống nhân vật ngoài đời TT và T.T.Kh nhưng những bài thơ ký T.T.Kh và Thâm Tâm lại có những tương quan và tương quan này lại nghịch lý trong mỗi bài thơ mà chúng ta cần phân tích, đối chiếu hơn là đi suy diễn, áp đặt, chụp mũ…
Đã bao nhiêu năm trôi qua, thơ kia còn đó, “dòng dư lệ” còn đây nhưng người trong cuộc đã về cõi vĩnh hằng! Trong cõi vô hình đó, họ đã gặp nhau chưa hay vẫn còn bên bờ sông ”tống biệt”?
Những bài thơ ký bút hiệu T.T.Kh vẫn tiếp tục gây thắc mắc cho bao người yêu thương văn học qua từng thời đại. Con tằm rút ruột mình dệt tơ cho người. Con yến ép xương dùng nước miếng mình tạo ra ”vàng trắng” cho đời. Thơ văn là sự chắt lọc, là tâm huyết, là ”dòng dư lệ” rớt xuống mà thành. Tình yêu có thể bỏ nhau, có thể lìa nhau, lạc nhau. Trong cuộc sống, con người có khi vì lý do nào đó không thể nhận con mình mới có những đứa con ”vô thừa nhận”, có những nấm mồ vô chủ không tên… Nhưng trong văn học, tác phẩm là ”đứa con tinh thần” dù không ”mang nặng đẻ đau” nhưng cũng vắt óc, bóp tim mà có nên không ai tự nhiên đi từ bỏ chúng? Chúng ta nên bắt đầu với sự vô lý này về những đứa con vô thừa nhận của T.T.Kh.
Trường hợp T.T.Kh kia với những bài thơ gây sóng gió cho sự tò mò của độc giả mà lại không chịu ”xuất đầu lộ diện” nhìn nhận? T.T.Kh là nam hay nữ mà sao chỉ viết có bốn bài thơ rồi biến mất?
T.T.Kh có vào TTTB đưa bài thơ xin đăng báo hay không?
- Ý kiến “không“:
HT- HC trong TNVN chỉ căn cứ vào bài thơ mà cho T.T. Kh là con gái: ”Cô bé T.T. Kh yêu. Người yêu của cô có nét mặt rầu rầu”. Khi HT – HC ”tuyên bố” xanh lè như thế thì khối người trong thiên hạ xúm vào cho đó là… cô gái! Nếu suy diễn như thế thì có khối người bị chuyển ”gien” lộn tùng phèo hết trọi vì không thiếu người nam lấy bút hiệu nữ (Vũ Bằng với Hoàng Thị Trâm, Phan Bội Châu với La Thị Hán, Đào Tiến Đạt với Anh Đào, Lê Quang Lương với Bích Khê và Lê Mộng Thu, Nguỵ Như Ban Mê Thuật với Mộng Huyền, Hoàng Tấn với Nguyễn Thị Xuân Trâm…) không thiếu người nữ viết dùm tâm sự cho nam và ngược lại. Cả ba Thanh Châu cùng HT – HC không có nói T.T.Kh đã vào tận tòa soạn mà chỉ nói là nhận bài thơ (không biết qua đường nào) mà thôi. Nguồn tin cô gái, thiếu phụ hay T.T.Kh vào tòa soạn đưa thơ từ đâu ra?
- Ý kiến “có”:
+ NTK trong “T.T.Kh., Nàng là ai?” (“Về những kỷ niệm quê hương” sđd tr 70) ghi: “Truyện Hoa Ty-gôn thực sự đã khơi dậy vết thương lòng của Thâm Tâm và cô gái tên Khánh. Một ngày, Tòa soạn báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy bỗng nhận được bức thư, trong đó chỉ có một bài thơ nhan đề Hai sắc Hoa Ty-gôn do một thiếu phụ còn rất trẻ đem lại…”. NTK khẳng định điều đó lần nữa trong “Huyền thoại về nàng thơ T.T.KH” (sđd tr 29): “Nội dung truyện Hoa Ty-Gôn chợt khơi dậy niềm tâm sự T.T.KH. Chỉ ít ngày sau số báo phát hành, nhân viên tòa soạn nhận được một phong thư dán kín, do một cô gái đem lại. Theo lời kể, cô này chừng 20 tuổi, vóc dáng bé nhỏ, đầy vẻ u buồn, và phong thư chỉ vỏn vẹn có bài thơ Hai sắc hoa Ty-Gôn ký tên T.T.KH. Giản dị vậy và chỉ có thế”.
Cũng chỉ là “theo lời kể” thôi chứ bản thân NTK về việc này cũng chưa có nguồn tư liệu chính xác.
+ Hồ Thông kể chuyện TT: “Trong lửa đạn thù” (VNKNQH, tr 191): “Thiếu phụ đem bài thơ lại tòa soạn chỉ là một cô gái tôi nhờ. Còn ông Vũ Đình Long thì chỉ biết vui vì lượng báo bỗng tăng vọt do bài thơ Hai sắc hoa Ty-gôn đem lại…”.
Điều này có sự hợp lý hóa là nếu cô gái do TT nhờ thì TT sẽ “im như thóc”. Còn giả như T.T.Kh là cô Khánh thật thì làm sao cô ta có thể vào TTTB, nơi có người yêu cũ là TT làm biên tập để mà… đăng thơ? THT từng thấy cô và chồng ăn kem ở bờ Hồ Tây (theo Nguyễn Vỹ) thì việc nhận mặt người đưa bài thơ có gì là khó? Hay T.T.Kh cũng… nhờ người vào tòa soạn đưa thơ? Tại sao cô Kh không đi hay nhờ người đi tới các tòa soạn khác như tờ “Ngày nay” của Nhất Linh hoặc “Phổ thông bán nguyệt san” cũng của Vũ Đình Long (không có TT làm việc), hay đến “Hà-Nội Báo” của Lê Tràng Tiền? (Có, theo Anh Đào, T.T.Kh có gởi thơ đến báo này năm… 1936?!). Trong khi đó, “Tòa soạn báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, ngoài ông Vũ Đình Long làm chủ biên kiêm quản lý, còn có Thanh Châu, Thâm Tâm, Lê Văn Trương, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can…” (“Về những kỷ niệm quê hương“, sđd trang 36). Họ quen biết với nhau, chuyện tình TT và Khánh là “giấy không gói được lửa” sao họ lại không biết gì! Nếu người thiếu phụ 20 tuổi còn rất trẻ đó có vào tòa soạn trên, nhất định không thể nào là cô Khánh. Cô Khánh không thể là T.T.Kh còn T.T.Kh nào đó thì lại có cuộc tình y chang Khánh chăng? Vậy bút hiệu T.T.Kh phải là một kẻ khác biết chuyện tình này. Người đó là ai vẫn còn bỏ ngỏ…
Với cuốn “Về những kỷ niệm quê hương” do Phượng Hoàng xuất bản tại Mỹ năm 1996 của NTK bao nhiêu người đã đọc được hai chi tiết này để khẳng định T.T.Kh hay có cô gái nào đó từng vào tòa soạn? Không bao nhiêu. Vậy thì “tin vịt” này trên tất cả các mạng và sách báo bấy nhiêu năm nay “copy” từ nguồn nào? Nếu chúng ta viết thiếu chứng từ, suy sót căn cứ là chúng ta đã làm công việc: Phi khoa học.
- Nguồn từ cuốn VNTNTCTT của NTL: Đây chính là cuốn sách cung cấp thông tin về TT và T.T.Kh có thời gian lâu hơn (từ 1968). Hầu hết các tác giả viềt về TT và T.T.Kh đều “copy” từ nguồn này mà không ghi rõ sách của ai! Thế nhưng cuốn này, NTL cũng không cung cấp nguồn ông đã lấy. Một chuỗi thông tin dài như xe lửa xuyên bang không có điểm đích. Có điểm nguồn từ TTTB nhưng cũng chỉ “kỳ thanh bất kỳ hình“! Những người làm việc trong TTTB hầu như theo diện ông bà hết cả rồi! Chết không đối chứng!
Có hay không hiện tượng có người không biết làm thơ bỗng chốc thành thi sĩ nổi tiếng rồi biến mất như T.T.Kh?
Thụy Khê trong bài “Tác giả bài thơ ‘Hai sắc hoa ty gôn là ai?’” (thuykhe.free) cũng tóm lược thông tin từ cuốn sách của NTL và cũng chỉ ghi nhận: “Có thể nói hầu hết những nhà phê bình biên khảo từ Hoài Thanh, Hoài Chân, trong Thi Nhân Việt Nam (1940), Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên (1965), Nguyễn Hữu Long, Nguyễn Tấn Trọng trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến (1968) … và gần đây trong Tuyển Tập Thơ Mới 1932-1945 Tác Giả và Tác Phẩm do Lại Nguyên Ân và Ý Nhi tập hợp phát hành năm 1992. Tất cả đều đánh dấu hỏi về TTKh”.
Có người khi chết rồi mới được ”vinh danh”. Có những cuốn sách gần xong thì người trong cuộc đã mất như Giáo sư Đỗ Đức Hiểu (cùng đồng nghiệp) làm cuốn “Tự điển Văn học – Bộ mới”. Hồng Nguyên chỉ viết mỗi bài thơ “Nhớ” mà đã đi vào sách giáo khoa. Thi sĩ Pháp Félix Arvers bất tử với một bài thơ Sonnet d’Arvers (“Mối tình câm” hay “Tình tuyệt vọng” – Khái Hưng dịch). Nhà văn Mỹ Margaret Munnerlyn Mitchell chỉ với một tiểu thuyết “Gone with the wind” (Cuốn theo chiều gió) gây hiện tượng “hot” về văn học và phim trường… Họ là những tác giả bằng xương, bằng thịt. Ngược lại, T.T.Kh lại thuộc dạng “văn kỳ thanh bất kỳ hình”. Đây là điểm đáng nghi ngờ nhất với cái bút hiệu tạo ra huyền thoại này bao nhiêu năm nay. Kẻ đã lấy một danh bí mật để làm một việc bí mật thì tất chẳng thể nhìn nhận. Còn kẻ giả danh lại càng không dám nhận vì những sản phẩm của kẻ giả danh có thể chẳng có giá trị văn học; nhận những đứa con lở ghẻ chỉ tổ cho người thiên hạ cười vào mũi ư? Nếu tính về phương diện “ăn khách” nhờ “có tiếng”, văn học không thiếu những “ốc mượn hồn” mượn bút hiệu người nổi tiếng để tự túm tóc mình lên. Buồn thay cho “văn dĩ tải đạo” kiểu này!
Chưa cần biết Kh là nam hay nữ vội, ta đi tìm giá trị của bốn bài thơ này trước, coi thử bài nào đúng của T.T. Kh, TT (người trong cuộc dĩ nhiên rõ ràng hơn kẻ ở ngoài cuộc) và bài nào của những chàng ”thi sĩ ngông” nhập cuộc viết cho “người ấy“?
----
b. Những bài thơ của T.T.Kh:
+ Bài số 1: HSHTG.
Huyền thoại hoa Ti-Gôn
Hoa Ti-Gôn trong tiếng Anh là Coral vine nghĩa là cây dây. Tên thứ hai là Chain-of-love tức ám chỉ hoa tình yêu. Hoa Ti-Gôn có tên khoa học là “Antigono leptopus”; nhưng “Antigone” trong bi kịch Hy Lạp của thi hào Sophocles (năm 442 trước Tây lịch) còn thể hiện người đẹp mang đức tính và khát vọng yêu đương của một phụ nữ.
Hoa Ti-Gôn có hai sắc màu hồng và trắng (có người cho nó có ba màu: trắng, hồng và tím đỏ) với những cánh hoa bé tí xinh xinh như hình trái tim. Vì thuộc dạng dây leo nên hoa Ti-Gôn không tự đứng mà phải nhờ vào giàn cây khác. Vậy gọi ”Hai sắc hoa” nghĩa là sao? Có phải ngụ ý muốn nói tới hai màu của hoa để ẩn dụ cho hai khía cạnh của một tình yêu?
Lê Bá Lân trong “Đặc khảo về những ‘Loài hoa tim rướm máu’ “ cho chúng ta những điều hiểu biết lý thú về loại hoa máu này: “Trong mắt Tây phương, hoa ti gôn hoàn toàn không dính dấp gì với tình yêu như trong chuyện TTKH. Cái tên ti gôn bắt nguồn từ thần thoại Hy lạp. Tuy nhiên, nhân nói đến biểu tượng về tình yêu, nói đến những tu từ bóng bảy như ‘hoa lòng,’ ‘hoa máu,”hoa trông dáng như tim vỡ,’ trong đoạn sau, tôi mời quí bạn tìm hiểu thêm về những đóa hoa hình ‘Tim Rướm Máu’
Hoa ti gôn nguyên tên Tây phương là Antigone, ta gọi tắt là ti gôn. Nó còn mang nhiều tên khác rất đẹp tùy theo địa phương, xứ sở như:
- Tràng hoa vương miện của Nữ Hoàng (Queen’s Wreath)
- Hoa hồng của vùng Montana (Rose de Montana).
Khi về hưu ỏ Austin, Texas, tôi tình cờ tìm được hoa ti gôn ở Nursery dưới tên Mỹ thông dụng là Coral Vine (dây leo san hô).
Đặc biệt theo sách Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ, ti gôn còn được gọi là ‘Dây Hiếu nữ’ do phiên dịch cái tên Antigône nguyên là tên của một nữ nhân vật trong thần thoại Hy lạp. Antigone là con gái của ông Oedipe và bà Jocaste (viết theo chữ Pháp).
Oedipe (phiên âm Việt Nam đọc là Âu Điệp) và gia đình ông gặp phải một định mệnh trớ trêu, ngang trái và bi thảm nhất. Âu Điệp nguyên là con của vua vùng Thébès là Laios (Lai Ất) và hoàng hậu Jocaste (Du Cát). Vua Lai Ất phạm tội hoang dâm, cướp vợ người ta nên bị một lời nguyền rủa tiên tri là bản thân của ông sẽ bị chính con đẻ của mình giết, và đứa con này sẽ lấy mẹ nó. Do đó, vợ chồng Lai Ất và Du Cát tránh ăn nằm với nhau để không sinh con nhưng rồi nhân một đêm say rượu, ông bà lỡ sinh ra Âu Điệp. Sợ lời nguyền rủa, vua Lai Ất sai người đem bỏ Âu Điệp trong núi sâu cho chết, còn cẩn thận lấy dáo đâm xuyên chân nó, với ý đồ là oan hồn của nó không hiện về được! Nhưng Âu Điệp được mục đồng cứu sống, sau đó, được vua vùng Corinthe nuôi. Cái tên Âu Điệp đặt cho nó có nghĩa là bàn chân bị sưng húp (do vết dáo đâm!). Khôn lớn, Âu Điệp ra đi tìm kiếm pháp sư để hiểu về gốc gác gia đình. Trên đường đi, Âu Điệp gặp chính cha mình là Lai Ất nhưng vì không biết mặt nhau nên sinh ra gây gổ, Âu Điệp giết chết cha đúng như lời nguyền rủa!
Khi đến cửa thành Thébès là quê hương, Âu Điệp ra tay trừ khử con quái vật Sphinx (Linh Sư) để cứu dân tình khi đi qua thì bị nó ăn thịt! Linh Sư Sphinx hình thù đầu người đàn bà nhưng mình là sư tử có cánh, nằm chận bên đường ở cổng thành, bộ hành ai đi qua đều bị nó hỏi một câu đố, giao hẹn rằng đáp sai thì nó ăn thịt, còn đáp đúng thì chính nó tự lao mình xuống núi đá mà chết. Câu đố của Linh Sư là: ‘ Con vật gì lúc bé thì đi 4 chân, lớn thì đi 2 chân, khi già yếu thì đi 3 chân,’ Âu Điệp đáp đúng là: ‘ Con người!’
Nhờ công lao trừ khử Linh Sư, Âu Điệp được vị nhiếp chánh vương Créon (Khế Ông) cai trị vùng Thébès thay vua Lai Ất, tưởng thưởng bằng cách nhường ngôi vua và gả em gái của mình, bà hoàng hậu Du Cát góa bụa, cho làm vợ, đúng như lời tiên tri nguyền rủa: Âu Điệp đã giết cha và lấy mẹ mình mà không biết. Âu Điệp ăn ở với mẹ ruột mình một cách hạnh phúc và sinh ra 2 con trai là Étéocle (Thế Ốc) và Polynice ( Bá lý Nhi) và 2 con gái là Antigone (Thi Ân) và Ismène (Y Miên).
Về sau, vua Âu Điệp khám phá ra tông tích mình và tội lỗi giết cha cùng loạn luân với mẹ. Bà Du Cát xấu hổ treo cổ quyên sinh. Ông Âu Điệp thì tự đâm mắt cho mù. Bị đàm tiếu và khai trừ khỏi xứ, ông bỏ đi lang thang. Antigone Thi Ân là gái hiếu thảo, cũng bỏ cảnh nhà sung sướng, êm ấm, mà đi theo để dìu dắt người cha mù loà. Cả hai lang thang đến thành Nhã Điển thì cha chết. Tấm lòng cao quí hy sinh của nàng Thi Ân không ngừng ở đây. Ít lâu sau, khi nghe tin anh ruột mình là Bá Lý Nhi nổi loạn chống cậu ruột là vua Khế Ông, bị giết và bỏ phơi thây nhục nhã. Lệnh vua nghiêm nhặt, tuyệt đối cấm không cho ai chôn cất, mục đích cốt để linh hồn tử tội lang thang vất vưởng, không phục thù báo oán được. Nhưng nàng Thi Ân là người em gái lễ nghĩa, nhất quyết tìm xác anh rồi cưỡng lệnh vua mà rắc đất lên, làm một nghi lễ mai táng tượng trưng. Nàng liền bị vua Khế Ông là cậu ruột đem xử tử không một chút xót thương.
Huyền thoại Oedipe đã gợi ý cho văn hào tác kịch gia Hy Lạp Sophocle dựng hai vở bi kịch trứ danh về Oedipe. Bác sĩ Sigmund Freud, cha đẻ ngành Phân tâm học, là người đặt ra danh từ “complex,” nghĩa là mặc cảm, dùng để chỉ tập hợp những cảm xúc phức tạp bị dồn nén, ẩn sâu trong đáy tận cùng của tiềm thức người ta nhưng lại có sức mạnh chi phối, điều động cái bản ngã chiều nổi của mỗi con người, như mặc cảm tự tôn, tự ti; mặc cảm tội lỗi. Freud đã dựa vào thần thoại Hy Lạp trên mà đặt ra danh từ ‘mặc cảm Oedipe,’ chỉ khuynh hướng kín đáo của con trai thường luyến ái mẹ ruột qua hành vi bú mớm, vuốt ve da thịt trong tuổi thơ ấu được mẹ ẵm bồng mà ngược lại, thù ghét cay đắng đối cha ruột vì là tình địch, tranh dành ân ái với mẹ mình và nghiêm khắc răn đe, roi vọt đối với mình.
Mặc cảm Oedipe thì áp dụng cho con trai, đối với con gái thì là ‘mặc cảm Électre,’ dựa vào chuyện thần thoại Hy Lạp của người con gái tên Électre, con của ông Agamemnon và bà Clytemnestre. Để trả thù cho cha, Électre xúi đẩy em trai mình là Oreste ra tay giết chết bà mẹ và người tình của mẹ là Égisthe. Chuyện Électre đã được nhiều thi văn sĩ trong nhiều thế kỷ xưa nay dựng thành bi kịch như Sophocle, Euripide, Giraudoux, Eschyle.
Trở lại chuyện nàng Antigone hay Thi Ân, đã hy sinh tận tụy đối với người cha Oedipe Âu Điệp và liều chết vì anh là Polynice( Bá lý Nhi) cũng có thể hiểu trong một khía cạnh tâm lý trong tiềm thức, là bản ngã luyến ái tự nhiên chăng? Tôi chưa tìm được tài liệu vì sao tên của nàng Antigone Thi Ân hiếu đễ trong thần thoại Hy Lạp lại được dùng để đặt cho loài dây hoa leo ti gôn, dây Hiếu nữ! Có thể hoa này trông giống như tràng hoa quấn đầu mà nàng Antigone Thi Ân hay đội trong một vở bi kịch danh tiếng nào đó chăng? Hoặc có thể trên mộ nàng, đã bỗng nhiên mọc ra dây hoa này, giống như truyện Trầu Cau của Việt nam. Ai có trồng hoa ti gôn đều thấy lá cây hình quả tim, hoa cũng hình tim màu đỏ tươi như máu và thân nó có nhiều dây vòng như lò xo để bám leo lên dàn, tượng trưng cho sự quấn quít tự nhiên của sợi giây huyết thống, của tấm lòng hiếu thảo!
Ở Việt nam, TTKH là người đã dùng hình ảnh của hoa ti gôn trong những bài thơ danh tiếng của mình vì nó chứng kiến mối tình kín đáo, chung thủy của nàng trong hàng rào lễ giáo. Nàng đã trước bạ nó vào văn học rồi và gọi nó là loài hoa trông ‘dáng như tim vỡ,’ một cái tên mà kẻ yêu thơ Việt nam ghi nhớ mãi! Kỳ thực, về thảo mộc học,trên thế giới và nhất là ở Mỹ, những người chơi hoa còn gặp nhiều thứ hoa khác có tên là ‘ Hoa rướm máu’ ( Bleeding heart) mà tôi xin kể ra để quí bạn tường lãm:
1-Bleeding Heart Vine (Clerodendrum thomsoniae): loại dây leo gốc từ vùng bán nhiệt đới Á châu và Phi châu, 5 cánh hoa trắng kết lại, giống trái tim như hoa ti gôn nhưng có thêm một cái tua nhị đỏ tươi, ló ra ở giữa như một tia máu vọt ra!
2-Bleeding Heart (Dicentra formosa) là loại thường niên thảo, có hoa giống trái tim, màu hồng phớt, hồng đỏ ửng hay trắng. Ở đầu cánh hoa lú ra hai nhánh, trông giống như hai cái cựa nhỏ, nên loại hoa này mang một tên phân loại là loài ‘lưỡng cự’ ( di: hai; centra: cựa. G/s Phạm hoàng Hộ gọi là loài Cựa ri! )… Loại Hoa Tim rướm máu (Bleeding heart) thuộc gia đình Lưỡng Cự (Dicentra) thì nhiều xứ có và mang những tên đẹp khác nhau như: – Hà bao mẫu đơn (Hà bao là trông giống búp hoa sen) hay Ngư nhi mẫu đơn (giống hình cá nhỏ) tại Trung quốc – Hoa Man mẫu đơn (Man là lả lướt, mượt mà, lan man như làn tóc) tại Nhật bản. – Hoa Đậu San Hô vì có sắc đỏ tại nước Áo…
1- Hoa ti gôn có tên Mỹ thông dụng là CORAL VINE, thường bán ở các Nursery tại những tiểu bang miền Nam Hoa kỳ, nhất là Texas nóng bức, lá tươi xanh luôn vì tigôn ưa thích nắng chói chang. Tên khoa học là ANTIGONON LEPTOSUS. Đây là một loại dây leo cho ra hoa rất dài mùa trong năm, mọc mau, lan nhanh và che kín dàn và hàng rào.
2- Thời gian ra hoa nhiều: cuối hè đến thu…” (nguoi-viet.com).
- Nguồn cảm hứng từ đâu để T.T.Kh viết HSHTG?
Từ truyện “Hoa Ti-Gôn” của Thanh Châu?
Hồ Thông kể lại lời TT: “Nhà văn Thanh Châu, có lẽ rõ tâm sự của tôi, đã viết và đăng truyện ngắn Hoa Ty-gôn, hàm ý an ủi và tỏ lộ cho biết ở đời chẳng có gì là bền vững cả. Truyện ấy còn đượm một chân lý, một triết lý sống. Rất thanh cao. Đạo đức. Rất mới. Vẫn bảo tồn văn hoá cổ truyền Việt-Nam’ (“Về những kỷ niệm quê hương”, NTK, sđd tr 190).
Như chúng ta đã xét ở trên: Thanh Châu đã khẳng định động cơ để ông ta viết là hoa Ti-Gôn nở rợp trời ở Hà Nội với chàng họa sĩ họ Lê và cô gái gỡ Ti-Gôn. Khi tác giả đã khẳng định như thế thì người đọc chúng ta “thêm mắm muối” làm gì! NTK ghi lại tâm sự cuối cùng của TT kể cho Hồ Thông nghe như trên “Trong lửa đạn thù“. Tình tiết này cũng chưa ăn khớp. Ta loại bỏ.
Hoài Việt trong “Thâm Tâm và T.T.KH” (Nxb HNV – 1991) cho rằng: “người có tiếng nói trọng lượng nhất trong chuyện này là nhà văn Thanh Châu. Ông là tác giả bài ‘Hoa Ti-Gôn’ đã gợi hứng cho T.T.KH…”.
Nguyễn Thạch Kiên trong “Huyền thoại về nàng thơ T.T.KH” (VNKNQH, sđd) cùng ý: “Nhà văn Thanh Châu, ký dưới truyện ngắn Hoa Ty-gôn đăng trong TTTB. số 174 ra ngày 27-9-1937, vô tình là một ‘thủ phạm’ chính… Nội dung truyện Hoa Ty-gôn chợt khơi dậy niềm tâm sự T.T.KH…”.
Mã Giang Lân trong “Ghi thêm về Thâm Tâm và T.T.KH” (Văn nghệ số 13 tháng 3-90) cùng ý: “Thanh Châu chính là người khơi nguồn thiên tình hận này…” (“T.T.KH nàng là ai”, Thế Nhật).
Thế Nhật trong “Dẫn nhập” (T.T.KH nàng là ai? Nxb VH – 1994) chỉ ghi: “Một nghi án văn học từ đó đến nay… từ ngày truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy của Vũ Đình Long từ 1937…”.
Đây là sự thật hiển nhiên không cần lý luận gì cả vì Thanh Châu đã nói rõ và bài thơ HSHTG cũng ghi rõ vì sao T.T.Kh viết HSHTG.
Nguyễn Tấn Long trong “T.T.KH.” (VNTNTCTT sđd) thì “Sau khi phân tích hai bài thơ, xét về thời gian và sự kiện diễn biến, chúng tôi nghĩ bài Hai sắc hoa ty gôn là nỗi lòng hòa hợp với cảnh tình người con gái trong thiên tiểu thuyết của Thanh Châu. Nàng đưa ra bài Hai sắc hoa ty gôn như để hưởng ứng cuộc hòa tấu ngay giữa Hoa Ty gôn và Hai sắc hoa Ty gôn…”.
Thống nhất HSHTG bắt nguồn từ truyện ngắn Hoa Ty-Gôn của Thanh Châu. Còn thông tin “râu ria”, chúng ta loại bỏ.
Mượn cốt truyện người để viết thành chuyện mình cũng không lạ gì. Nguyễn Du cảm “Kim vân kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân tận Trung Quốc mà viết “Truyện Kiều“. Nguyễn Du cảm Kinh Kha mà có “Kinh Kha cố lý”. Lạc Tân Vương cảm Kinh Kha mà viết “Dịch thủy tống biệt”. Á Nam Trần Tuấn Khải cảm Kinh Kha mà có “Tráng sĩ hành”. Vũ Hoàng Chương cảm Kinh Kha mà ra ”Bài ca sông Dịch”. Khái Hưng cảm Phạm – Trương mà viết ”Tiêu Sơn tránh sĩ”. Bùi Giáng cảm Vua Quang Trung mà viết ”Nguyễn Huệ”. Bạch Cư Dị cảm người ca kỹ mà viết ”Tỳ bà hành’’ …
TT tại sao không cảm được cốt truyện “Hoa Ti-Gôn” của Thanh Châu mà “tức truyện sinh thơ” chứ? TT cảm được. T.T. Kh cũng ”cảm” được nên HSHTG ra đời. Báo ăn khách quá! Thế là các thi sĩ ”phục” lăn cũng vác bút xông trận nhưng khoác cái áo TT cho chắc ăn nên bài ”Màu máu Ti-Gôn, Các anh, Dang dở” nhanh chóng nhập cuộc tạo cơn sóng gió cho văn học thời bấy giờ để “trả đũa” bài HSHTG:
Hai Sắc Hoa Ti-Gôn
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng: “Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!”
Thuở đó, nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh li,
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng,
Là chút lòng trong chẳng biến suy!”
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá! Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường…
Từ đấy thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ…
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Và từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng một người.
Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha!
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi,
Một mùa thu trước rất xa xôi…
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng. Chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy sang sông đứng ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa… vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?
(Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 179, 30-10-1937)
- Khai sinh bài thơ? Không tài liệu nào cung cấp chính xác.
- Bài thơ bao nhiêu đoạn?
Nguyễn Tấn Long: Trong VNTNTCTT cung cấp chỉ 10 đoạn với những từ thu không viết hoa và có dấu chấm, phẩy như trên.
Nguyễn Thạch Kiên: Trong VNKNQH, cung cấp 11 đoạn với những từ thu viết hoa và không dấu tu từ. Thêm một đoạn thứ nhì:
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát
Tay vít dây hoa trắng, chạnh lòng.
Thế Nhật: Trong “T.T.KH nàng là ai?” cung cấp 10 đoạn như NTL.
Khác : + Từ: “máu pha/máu phai“
+ Thời gian đăng: “Bài thơ được đăng vào ngày 23 tháng 9 năm 1937″.
- Thời gian nào chính xác? Cần tính thời gian truyện ngắn Hoa Ti-Gôn trước:
Nguyễn Tấn Long ghi rõ truyện ngắn “Hoa Ti-Gôn” của Thanh Châu được TTTB số 174 đăng “ngày 27 tháng 9 năm 1937“.
Thế Nhật cho bài thơ HSHTG đăng “ngày 23 tháng 9 năm 1937“?
Té ra, HSHTG đăng… trước truyện “Hoa Ti-Gôn” của Thanh Châu… 4 ngày?
Chúng ta chẳng rõ ai ghi đúng nhưng nếu như chưa có nguồn chính thức, thông tin thời gian của Thế Nhật bị bác bỏ vì trái khoáy với thực tế. Chúng ta chỉ còn chọn 27/9/1937 hay 30/10/1937?
Chúng ta cần hiểu thêm:
Thanh Châu đăng truyện đầu tháng 9. Báo TTTB phát hành mỗi thứ bảy hàng tuần. Do đó, báo đăng truyện Thanh Châu nhanh nhất cũng sẽ rớt vào thứ bảy của tuần thứ nhất/ tháng 9. Báo tới tay T.T.Kh nếu ngay trong tuần phát hành thì cũng sẽ phải rơi vào tuần thứ nhì của tháng 9 mới đến tay T.T.Kh được. Đọc xong, viết ngay thì cũng phải bay tuần thứ ba cái đã. Tuần thứ ba/tháng 9, T.T.Kh nếu gởi thư tới tòa soạn bằng xe… hai chân thì mau hơn gởi tới Bưu điện Hà Nội cho “bưu tá” chuyển bằng xe… bốn chân (xe kéo). Tòa soạn có nhận bài nhanh nhất cũng phải chuyển qua tuần đầu tháng 10 mới in. In xong tuần thứ nhất tháng 10 ngày thứ bảy, báo mới như bánh mì nóng dòn ra lò… Làm sao thơ T.T.Kh ra trong tháng 9 được?
“Lịch Sách Vạn Niên” (Nxb Thẩm Dương 1995 – Hồ Thị Lạc dịch, Nxb VHDT – 1997) chỉ rõ: Ngày 23 tháng 9 năm 1937 tức là ngày 19 tháng 8 âm lịch Đinh Sửu. Đó là ngày thứ năm. Ngày 30 tháng 10 năm 1937 tức là ngày 27 tháng 9 âm lịch. Đó là ngày thứ bảy. (Cách chuyển đổi ngày giờ trên tuvi.vietshare.com rất tiếc, không tra được thứ trong tuần). Tính theo lịch Ngày Julius như tự điển bách khoa hướng dẫn:
JD mod7: 0 1 2 3 4 5 6
Ngày: Thứ 2 Thứ 3 Thứ 4 Thứ 5 Thứ 6 Thứ 7 Chủ nhật
thì lại đi trước cách tính của Lịch Sách Vạn Niên một ngày. Nghĩa là nếu trong tháng 9 năm 1937, có các ngày ứng vào ngày thứ bảy: 4. 11. 18. 25 thì lịch Ngày Julius là 5. 12. 19. 26 mới đúng vào ngày thứ bảy. Cách áp dụng này cũng chỉ chính xác tương đối. Ai còn giữ lịch năm 1937 thì giở ngay khỏi tra tìm, mệt!
Thống nhất thời gian đăng bài của HSHTG trên TTTB là ngày thứ bảy 30/10/1937.
- Bài thơ HSHTG gởi đăng trước hay BTTN gởi trước?
+ Bài HSHTG được gởi sau.
HT – HC trong TNVN, tr 360 ghi: “tòa báo nhận được một bài thơ nhan đề ‘Bài thơ thứ nhất’, rồi lại nhận một bài thơ nữa: ‘Hai sắc hoa ti gôn’”.
Phạm Thanh trong: “Thi Nhân Việt Nam hiện đại”, quyển thượng, “nối gót” HT – HC cho rằng: “T. T. Kh. là tên tắt của một nữ sĩ xuất hiện trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy xuất bản tại Hà Nội vào khoảng tháng 9 năm 1937, sau bài Hoa ti-gôn chuyện ngắn của ký giả Thanh Châu. Nữ sĩ gởi đến cho nhà báo trên một bài thơ nhan đề là Bài thơ thứ nhất, kế một bài nữa là bài Hai sắc hoa ti-gôn. Cả hai, đều ký bút hiệu là T. T. Kh” (petalia.org).
Xét:
* TTTB không phải cuốn sách nên tác giả nào ghi “xuất bản tại Hà Nội” là không chính xác. Phải ghi là “phát hành tại Hà Nội”.
* T.T.Kh. không thể xuất hiện vào khoảng tháng 9 năm 1937 được như đã phân tích trên.
* Nếu HT – HC cho BTTT gởi trước, tại sao TTTB lại không cho đăng trước? Bằng chứng BTTN đã đăng ngày 20/11/1937, còn HSHTG gởi sau lại đăng ngày 30/10/1937? Khi tác phẩm đăng thì tác giả mới xuất hiện bằng bút hiệu chứ?
+ Bài HSHTG đăng trước.
Thanh Châu trong “Những cánh hoa tim” (“Về những kỷ niệm quê hương“, sđd tr 166): “cùng dạo ấy, ở tòa soạn nhận được một bài thơ đầu của bà T.T.Kh…. Bài thơ tả cái tâm sự não nùng thầm kín của một người đàn bà đã có chồng nhớ lại tình duyên cũ…
Bảo rằng: “Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng thế thôi!”.
NTL với VNTNTCTT cùng thông tin trên.
Ai đúng?
- Thanh Châu là người trong tòa soạn, là người trong cuộc. Tức là nhân chứng.
- HT – HC, Phạm Thanh chưa đúng vì về thời gian thiếu tính chính xác.
- Thời gian các bài thơ của T.T.Kh không ai có phản kiến bằng tư liệu gốc thì chúng ta tin rằng chúng là vật chứng hữu hiệu nhất để khẳng định mọi vấn đề, trong đó bao hàm bút hiệu T.T.Kh xuất hiện trong ngày 30/10/1937 mà không nhân chứng nào có thể thay thế hoàn toàn.
Ngày nào đăng trước, tính bài đó trước như hiện nay là xong.
Khúc mắc của hậu thế?
HT – HC nhầm lẫn thời gian lớn khi so với Thanh Châu. Do đó, dù cuốn TNVN của HT – HC được xem như cuốn phê bình, giới thiệu tác giả có giá trị nhưng ở thời gian khai sinh những bài thơ T.T.Kh, thiên hạ không theo hai ông trừ Phạm Thanh. Trái lại, họ tin vào nguồn Thanh Châu hơn.
Lưu An từ Thụy Sĩ năm 2003 với bài “TTKh và những khám phá về thân thế của tác giả” (tuoitho.net) đã có công tổng hợp và nêu ra một vấn đề: “Khi bài thơ thứ nhất được đưa lên báo, có người thắc mắc tại sao bài thơ Hai sắc hoa Tigôn lại được gửi đăng báo trước bài Thơ thứ nhất?
Người ta cho rằng, tác giả đã làm bài Thơ thứ nhất, than khóc cho mối tình lỡ dở của mình từ lâu nhưng vì một lý do nào đó không gửi đăng báo. Nhưng sau đó, ngẫu nhiên đọc câu truyện ngắn Hoa Tigôn cuả ký gỉa Thanh Châu, cảm động với câu truyện và nhất là tìm thấy nhiều dữ kiện tương đồng với mối tình ngang trái của chính mình, tác gỉa đã làm bài thơ Hai sắc hoa Tigôn rồi gửi ngay cho toà báo. Chính vì thế bài thơ thứ nhất được phổ biến sau bài Hai sắc hoa tigôn”.
Giả thuyết này không đứng vững khi ta thấy: Hai bài thơ đều có nguồn động lực là hoa Ti-Gôn khi T.T.Kh “xem tiểu thuyết“, từ “ai đó mang lại cánh hoa tim“. Nội dung hai bài đều giống nhau nên không thể cho rằng vì lý do nào đó, BTTN làm trước mà không gởi đăng. Chúng ta không thấy chính HT – HC đã ghi trong TNVN là tòa soạn TTTB nhận bài “Bài thơ thứ nhất” trước hay sao? Nghĩa là T.T.Kh đã gởi bài này trước nếu theo cách hiểu trên.
+ BTTN cũng lấy nguồn từ hoa Ti-Gôn: “Bỗng ai mang lại cánh hoa tim”? Nếu theo Lưu An đưa ra thắc mắc của thiên hạ thì cũng đi lạc đường. T.T.Kh đã làm trước ư? Vậy ai là người “mang lại cánh hoa tim” cho T.T.Kh viết BTTN rồi cất lại? Khi đọc truyện Thanh Châu, T.T.Kh mới viết HSHTG gởi báo “vì thấy nhiều dữ kiện tương đồng với mối tình ngang trái của chính mình”? BTTN không cùng dữ kiện ư?
Thắc mắc và lý giải này không có cơ sở. Chúng ta loại trừ.
+ BTTN cung cấp dữ kiện khá “dữ dội” về cuộc tình dang dở này: Nhà nghệ sĩ. Vườn Thanh. Hẹn hò dưới trăng nghiêm trong mùa thu khô. Lấy chồng nghiêm luống tuổi nên hồn héo. Khóc buồn. Hoa Ti-Gôn gợi nhớ kỷ niệm. Không dám gặp người cũ dù biết người ấy vẫn thiết tha theo đuổi mình… Nó là lực lượng “hậu cần” cho “quân tiên phong” HSHTG đánh trước. BTTN ra đời sau là hợp lý.
+ HSHTG: Đơn giản hơn: Mùa thu. Hoa Ti-Gôn và người yêu thường… vuốt tóc. Cô gái tiễn người yêu đi xa. Cô gái kia có chồng nhưng chồng ái ân lạt lẽo vì biết vợ mình cứ nhớ thương người cũ. Hoa Ti-Gôn từ tiểu thuyết nọ gợi kỷ niệm buồn. Cô gái vẫn thương nhớ người yêu cũ.
Xét ra, HSHTG còn giấu nghề nghiệp của người yêu, không cho biết nơi chốn hẹn hò; còn BTTN khai ráo trọi: Đó là “chàng nghệ sĩ” (TT là họa sĩ, không gọi nghệ sĩ thì gọi là chi?). Nơi hẹn hò cũng “thú thật cùng qúy vị”: “Vườn Thanh”. Xem ra, BTTN mới… “đốt nhà” mình! Nếu nói vì truyện ngắn Thanh Châu có nhiều tương đồng với cuộc tình tác giả nên tác giả làm ngay bài HSHTG gởi ngay mà không gởi BTTN làm trước là cũng chưa chính xác. Ngay cả NTL cũng chưa “sáng suốt” khi nhìn nhận “nỗi lòng hòa hợp với cảnh tình người con gái trong trường thiên tiểu thuyết của Thanh Châu” sau khi “phân tích hai bài thơ, xét về thời gian và sự kiện diễn biến”. Thật là một kết luận “thầy bói sờ vòi voi”!
Truyện “Hoa Ti-Gôn” của Thanh Châu đi khá xa chi tiết của bản tự khai trong hai bài thơ trên của T.T.Kh về “thời gian và sự kiện diễn biến“. Cô gái không yêu chàng họa sĩ Lê Chất trong thời gian 8.9 năm mà chỉ yêu sau thời gian đó nhân tình cờ gặp lại trong buổi tiệc chiêu đãi của tòa lãnh sự Pháp. Nhân vật của T.T.Kh hay T.T.Kh yêu từ hồi nào. Nhân vật Mai Hạnh thích hái Ti-Gôn còn T.T.Kh hay nhân vật nữ trong bài thơ thì không. Lê Chất cùng Mai Hạnh rủ nhau bỏ trốn còn hai nhân vật trong hai bài thơ thì không. Nhân vật nữ T.T.Kh trong thơ bỏ đi lấy chồng. Nhân vật Mai Hạnh không dám bỏ trốn cùng Lê Chất và chết bất ngờ do chồng Mai Hạnh báo tin (chi tiết này được Thanh Châu dàn dựng vụng về, không đúng tâm lý). Còn hai nhân vật trong thơ thì… sống nhăn răng! Chỉ giống nhau: Chàng họa sĩ. Hoa Ti-Gôn. Dang dở một cuộc tình. Những cái sườn dang dở này áp dụng vào những mối tình oan nghiệt nào mà chẳng được.
Điểm đặc biệt ở đây chính là: Hoa Ti-Gôn!
Dù sao thì bài HSHTG cũng đã ra mắt độc giả trước với thời gian không thể chối bỏ. Cả hai bài, bài nào đăng trước hay sau (lý do nào đó) cũng cùng một nội dung. Nhưng nhẹ nhàng xét xem, chỉ có HSHTG mới lấy nguồn từ truyện ngắn Thanh Châu, còn BTTB thì lấy nguồn từ… HSHTG. Một tác giả có thể viết cùng một chủ đề, cùng một nội dung nhưng chi tiết, tình tiết phải khác đi chứ. Ta có thể thấy ngay ở Nguyễn Bính cùng chủ đề tình yêu, cùng nội dung viết cho người yêu, Nguyễn Bính có viết hai bài thơ cho cùng một cô gái cùng tình tiết, chi tiết bao giờ! Đây cũng là quy luật văn học. Chúng ta có thể tìm thấy quy luật văn học này trong tất cả các loại hình văn học: Chủ đề tình yêu. Lao động. Chống Pháp. Chống Mỹ… có một tác giả nào viết một tình tiết, một chi tiết trong một nội dung mà hai bài? Đi lạc động cơ này, không thấy có gì “quang minh chính đại” cả, dù mình “copy” của chính mình!
Ví dụ tác giả có 2 cuốn sách như Thế Nhật, in khác năm (1994 và 2001), sửa đổi lại rồi xuất bản hai nơi khác nhau (VH và VHTT), hai giấy phép, hai nhà in khác nhau nhưng… cùng nội dung, một cái tên “T.T.KH nàng là ai?” mà không ghi là “tái bản!”. Hoàng Tiến có hai bài “T.T.Kh là ai?” và “Giả thuyết về T.T.Kh” cùng nội dung đăng trên Nhân Dân Chủ Nhật, các nhà viết sách giáo khoa, tham luận cũng thế, chỉ cần thay đổi vài dòng, đổi tên thì thành bài khác. Không biết có hợp với nghĩa “Khoa học trong văn học” hay không? Riêng trường hợp những bài thơ của T.T.Kh, cùng nội dung mà có tới ba bài na ná như nhau sẽ lập tức bị đưa vào nghi án: Không phải một tác giả làm.
Còn bây giờ?
Bây giờ, ta xét nội dung của bài HSHTG xem xét hồi ức một cuộc tình của T.T.Kh với chàng nghệ sĩ trong thơ có ăn khớp với chuyện tình Khánh và TT bên ngoài hay không?
Nhân vật trong thơ?
Về nhân vật trong thơ, ta cũng không nên nặng về nhân vật đó chính là tác giả. Nhân vật trong thể loại trữ tình (Thơ, Trường ca) hay tự sự (Truyện, Tiểu thuyết, Kịch) đều có thể là nhân vật của tác giả qua đại từ xưng “Tôi” chứ không nhất thiết phải là tác giả “Tôi”. Do đó, tác giả T.T. Kh có thể kể chuyện mình, có thể kể chuyện người khác. Ta xem xét coi HSHTG nghiêng về “cái tôi“ là nhân vật của tác giả hay “cái tôi” của chính mình qua hồi ức bằng thơ?
Nội dung chuyện tình nhân vật của tác giả:
Bài thơ HSHTG được T.T.Kh hồi ức hai nỗi lòng đau xót biết bao nhiêu, trân trọng biết bao nhiêu về “người ấy” :
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong.
… Người ấy hường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
… Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy sang sông đứng ngóng đò.
Cảm nhận yêu và được yêu thương là cái hạnh phúc tuyệt vời nhất của tình yêu dù trọn vẹn hay không trọn vẹn. T.T. Kh là con người biết yêu thương thật lòng nên dòng thơ, câu nào cũng lấy nước mắt người ta. Câu nào cũng nghĩ cũng hiểu cho ”người ấy”:
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?
Lời than ”trời ơi !” kia không của riêng ai nhưng người than cũng nào có dám bật ra thành tiếng kêu lớn cho trời long, đất lở đâu! Than mà nuốt trở lại trong lòng ép trái tim kia vỡ máu ra mới đau tận xương, mới buốt tận cốt. Con sáo sang sông sao sáo vẫn ngóng trông! Buồn chết nửa con người đồng nghĩa với một trái tim vô hồn từ dạo người đi không trở lại cho từng cánh Ti-Gôn rơi rụng mãi bên đời!
Người đọc mang tâm trạng Thúy Kiều khóc mả Ðạm Tiên, tất nhiên, chẳng thể cầm giọt nước mắt khóc mướn, thương vay đau lòng này! Tan vỡ như thế, nát lòng như thế dù là người trong cuộc hay ngoài cuộc vẫn cảm nhận một tình yêu bên cạnh trong BTTN:
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng: ”Vẫn nhớ em!”.
Đem cái đoạn hay nhất, đau đớn nhất của bài mà ai cũng thuộc:
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Và từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người!
để so với những dòng viết về người con gái ”cam chịu” hy sinh tình yêu của mình để cùng người chồng song bước cho ”phải đạo” này trong thơ TT giả mới thấy một trời một vực.
Tại sao mãi đến ngày 4/5/1940, TT mới có bài “Các anh“, nghĩa là phải chờ tới… ba, bốn năm sau TT mới có bài ”đáp lễ” cho HSHTG? Sao mà TT hững hờ, sao mà TT lạnh nhạt với mối tình độc nhất của mình như vậy? Có nghịch lý không? Chúng ta thấy có cái gì bất bình thường không? Đọc bài thơ, ta sao nghe mà khinh cái gã ”nghệ sĩ” cô hồn kia. Bài thơ rõ ràng hàm ý mỉa mai cái mối tình tuyệt vời mà T.T. Kh đã xây dựng nhân vật ”cô gái”:
Hãy vui lên các anh ơi !
Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về.
… Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi,
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh.
Sá chi những chuyện tâm tình,
Lòng đau đem chữa trong bình rượu cay!
Bao nhiêu trân trọng yêu thương của độc giả dành cho TT đã bị cái từ ‘’sá chi”… ”lột” sạch sẽ. Sá chi nghĩa là sá gì, nghĩa là nhằm nhò chi… là rẻ rúng, là coi thường rồi còn chi nữa! Con người như TT nghe Vũ Cao đọc thơ cũ của mình đã khóc thì làm sao có một TT cợt đùa, chà đạp tình yêu mình đến thế?
Đã vậy, trong bài, thằng đàn ông trong đó thật tệ lậu, thật trâng tráo khi dựa trên nỗi đau thương của người con gái trong thơ T.T. Kh mà cười cợt, mà hợm hĩnh:
Miệng chồng Khánh gắn lên môi
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
TT viết như vậy chẳng khác nào ”bỏ bom” vô hạnh phúc người ta, chẳng khác nào đưa Kh đi vào tận cùng với sự rẻ khinh của chồng. Có sống sượng gì cũng không ai ngu ngốc bê cái tên ”cúng cơm” thả tùm lum lên báo cho người ta ”thóc mách”! Người trong cuộc yêu thương ngần ấy, lỡ làng ngần ấy chắc chắn không thể thả xuống những câu mô tả tầm thường như vậy! Nó vừa phi đạo đức, vừa nặng tính cách ”dục tình” chứ yêu thương gì nữa với ”người ấy” mà T.T.Kh xây dựng. Từ ‘’sáng ngời” thả xuống, đám mây xám kéo lại bịt bùng …
Vâng, tôi vẫn biết có người
Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng.
Ðể hôm sau khóc trong lòng,
Vâng, tôi vẫn biết cánh đồng thời gian.
Từ ”vâng” vô thưởng vô phạt nhưng viết bình, phân tích có dẫn chứng càng tránh dùng từ này tốt hơn vì nó ngợi lên một ý hời hợt, cẩu thả một khi được lạm dụng dùng đầu câu. Trong bài thơ này, từ “vâng” lại như có một ý đắc chí, gật gù khinh khỉnh của kẻ tưởng mình biết tỏng tòng tong ruột gan kẻ khác. Đây không phải là thái độ của một người cảm thông.
Nhân vật này ”cố tưởng” mình là ”kẻ được” đang mơ màng đến hình ảnh ”choáng ngợp” tệ hại hơn một gã Mã Giám Sinh đối xử tàn nhẫn với Kiều trong ”đêm tân hôn”. Có một người yêu cũ như vậy thì thà: Cành lan, xác bướm chôn vào mồ sâu! Những lời này là nội tâm mà quyền được thố lộ chỉ dành cho người đàn bà đau khổ mà thôi. Ngòi bút TT giả này thật sự chả hiểu gì về nội tâm phụ nữ nên phun ra thêm:
Bao nhiêu hạt lệ còn thừa,
Dành ngày sau khóc những giờ vị vong.
Bao nhiêu những cánh hoa lòng
Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng, hồn cha.
Lời ”giáo huấn đạo đức” dỏm này ném xuống chà nát dòng nước mắt người yêu. Người cao thượng mà thế ư! Cười cợt, dửng dưng như chưa bao giờ biết rung động dưới những tia nắng ấm, chưa biết ngậm ngùi khi nắng tắt ngoài sân. Có người yêu như thế, nếu trước đó ”nhụy đào” đã lỡ bẻ cho hắn, giờ chỉ còn nước ”vạch trời kêu mà tuốt gươm ra”… chém!
Hai nhân vật, hai tính cách trái ngược không có một chút nào đồng nhất về sự rung cảm: Một người con gái thật lòng, đau khổ đáng thương! Một gã đàn ông hợm hĩnh, tầm thường phát ghét! Người con gái này quả thật là Kh thì gã cợt đùa kia dứt khoát không phải là TT. Vậy tác giả thật sự những bài thơ ký TT là ai?
Chứng minh một vấn đề, lý giải cho một quan niệm chỉ dựa trên một vài dẫn chứng như thế quả chưa thể thuyết phục. HSHTG là bản tình ca cho cuộc tình hai ngã rẽ, là nỗi niềm tâm sự sâu lắng đến đắng lòng của người con gái “xuôi chèo mát mái về bên ấy rồi”!.
Kiều sau khi thăm mả Đạm Tiên đã đoán biết và phập phồng cho số phận của mình: “Thấy người đó biết mình sau thế nào” thì trong HSHTG, nhân vật “người ấy” cũng đã lo lắng :
Bảo rằng: ”Hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”!
Sự linh cảm này đã từ hiện thực xã hội lúc bấy giờ như Nguyễn Nhật Huy trong ”Hai sắc hoa Ti-Gôn, bức thông điệp màu thắm pha” (suutap.com) đã nhận xét: ”Trước mối tình ‘không môn đăng hộ đối’ trái với những lễ giáo khắt khe và nghiệt ngã của xã hội lúc bấy giờ, chàng trai đã dự cảm được sự đổ vỡ đớn đau sẽ đến với cuộc tình của mình mà lòng nặng trĩu niềm u buồn khó tỏ bày”. Người con gái (cũng như Thúy Vân vô tư bảo chị: “khéo dư nước mắt khóc người đời xưa“) đã ngây thơ cho cuộc tình mình là chắc chắn. Lưu Trọng Lư trong ”Tình điên” và ”Một chút tình” như đứng về phía nàng:
Mười bảy xuân, em chửa biết gì
…Ngây thơ em đã biết gì đâu.
Vì không linh cảm được những bóng giăng hiu quạnh quanh tình yêu nên người con gái trong HSHTG mới thơ ngây:
Cho nên cười đáp: “Hoa màu trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”..
Hoa Ti-Gôn mà ”người ấy” nói đến là hoa màu máu ”dáng như tim vỡ”, có sự suy nghĩ từ tim mà ra nên sâu lắng nhưng đầy lo âu, thắc thỏm trước hạnh phúc mong manh.
Hoa Ti-Gôn của người con gái là hoa màu trắng ngây thơ tuổi học trò nào có biết gì lo âu mà thắc thỏm? Màu trắng là màu bất di, bất dịch không phai cũng ”chẳng biến suy” theo thời gian.
Một hạnh phúc mà có hai màu đối đầu cả ý và sắc đang ngược nhau. Tình yêu không thể dung hòa những đối nghịch này thì trước sau gì cái hạnh phúc hai sắc màu kia cũng không cánh mà bay!
Cuộc đời mấy ai biết được chữ ngờ. Đêm mờ sương bao phủ. Con bướm vàng đã đậu trái mù u. Nàng đó đã: “Trong một ngày vui pháo nhuộm đường” . Ý Nhi trong ”Thu rụng lá” có nhắc:
Mùa đông đến đón bên sông
Vội vã cô em đi lấy chồng.
”Cô em đi lấy chồng” cùng nghĩa với ”pháo nhuộm đường” nhưng mức độ giá trị thì ”pháo nhuộm đường” mang sắc thái ẩn dụ kín đáo hơn. (Chúng ta chú ý lời thơ đầy “ẩn dụ” này trong HSHTG và đó cũng là nét độc đáo của giọng thơ TT mang bản chất họa sĩ. Ngay cả đầu đề bài thơ cũng bao hàm ẩn dụ chứ không thẳng thừng là BTTN, BTCC hay ĐACC…). Đó là nguyên nhân cho nhân vật “người ấy” xa xót trong HSHTG :
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy sang sông đứng ngóng đò.
Lời thơ thắm đượm những “Chiều thu hoa đỏ rụng. Chiều thu” với một tiếng lòng buồn thê thiết như cả cuộc đời chưa bao giờ biết buồn gói gọn trong 10 đoạn (theo NTL) với 40 câu và 11 đoạn (theo MGL) với 44 câu thơ thất ngôn dù nam hay nữ làm thì hai người này phải là người trong cuộc hay “những người trong cuộc”.
Đấy là nội dung của bài thơ qua nhân vật “tôi” của tác giả T.T.Kh. Tới phiên, chúng ta xét nội dung bài thơ có giống chuyện tình TT và Kh trong cuộc đời?
Nội dung nhân vật trong thơ là nhân vật thật TT và Khánh:
Họ có mấy mùa thu yêu đương?
Ta thấy bài thơ mở đầu đã ghi rõ: “Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn”. Bài thơ đăng ngày 30/10/1937. Mùa thu trước tức là thu của năm 1936. Nhưng hai câu này “Từ đấy thu rồi thu lại thu” và “Mà từng thu chết, từng thu chết” đã làm hư hỏng nội dung hiện thực của bài thơ. Mới có cách một năm tức là một mùa thu, sao T.T.Kh lại dùng “thu lại thu, từng thu, từng thu”? Tức cũng như ba năm. Lùi lại là năm 1935. Trong bài, nhân vật khẳng định lần nữa: “Tôi nhớ lời người đã bảo tôi. Một mùa thu trước rất xa xôi”. “Mùa thu trước” mà “rất xa xôi” thì ít ra cũng mấy mùa thu rồi! Điều này là sai thời gian vì TT lên Hà Nội năm 1936 (theo Nguyễn Vỹ, theo nội dung bài thơ “một mùa thu trước“. Nếu nhiều mùa thu quá “thu lại thu, từng thu, từng thu…”, tuổi của hai nhân vật sẽ nhỏ lại và cơ sở lý luận sẽ có nhiều khe hở khi TT mới 18. Thực tế, TT lên Hà Nội năm 1936. Còn TT lên Hà Nội năm 1935 không tài liệu có cơ sở đủ lý luận và chứng minh. Vậy họ có mấy mùa thu để yêu đương? Bài thơ HSHTG đưa người lên núi để… cỡi voi chơi thì BTCC, năm 1938 đã dẫn người xuống núi… cỡi… cọp về nhà: “Ba năm ví biết anh còn nhớ. Em đã câm lời có nói đâu!”. Ba năm này chính xác thời điểm họ yêu và xa nhau: 1936 – 1938.
Thắc mắc được đặt ra: Tại sao cùng một người làm mà hai bài thơ, hồi ức hai thời điểm khác nhau? HSHTG thì cho 1937-1935, BTCC cho 1938-1936? Nhưng trong hai câu thơ trong BTCC đang “khai khẩu” trên lại sinh ra mâu thuẫn:
- Khánh (nếu là T.TKh) hồi ức trong HSHTG có chân thật hay không?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ…
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Và từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng một người.
Nguyễn Vỹ trong “Thâm Tâm và sự thật về T.T.KH.” (Văn thi sĩ tiền chiến, sđd tr 261): “Người đau khổ trong cuộc tình- duyên dang dở này không phải là cô Khánh. Trái lại, cô có đầy đủ hạnh- phúc với người chồng rất chìu chuộng cô. Trần-huyền-Trân gặp cô đi hí- hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm Blanche- Neige (kem Bạch- Tuyết), Bờ-Hồ, hai lần. Hai ông bà nhìn nhau và cười với nhau ra vẻ âu- yếm lắm. Khánh đã có thai, được chồng nâng đỡ lên chiếc xe nhà Citroen, lúc ra về, còn đi một vòng quanh Hồ Hoàn- Kiếm. Trần-huyền-Trân kể lại cảnh âu- yếm đó cho Tuấn-Trình nghe và kết luận: ‘Con Khánh nó cho cậu leo cây, cậu còn si nó làm gì nữa thêm tủi nhục’ Người đau- khổ, dĩ-nhiên là Tuấn-Trình THÂM-TÂM. Chàng yêu nhớ đơn phương với mặc cảm của một nghệ-sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo đùa bỡn, nhất là Vũ-trọng-Can…”.
Nếu bài thơ này của Khánh làm như Hoàng Tiến khẳng định đã được nghe Phạm Quang Hòa kể lại trong “T.T.KH là ai?”: “Cô Khánh đọc Tiểu Thuyết Thứ Bảy in truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu (số tháng 9/1937) xúc động, tự thố lộ câu chuyện riêng bằng bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn và gửi đăng Tiểu Thuyết Thứ Bảy…” (Thâm Tâm và T.T.KH, Hoài Việt) chắc chắn không thể nào. Người vui như thế, bận bịu với con cái, được chồng giàu có săn sóc, đau đớn gì mà viết những câu thơ hồi ức lộn xộn năm tháng như cứa vào lòng mình những vết thương… những vết thương… tự tạo!
Ta tạm cho nhân vật của T.T.Kh vừa mang tính cách nhân vật hư cấu vừa mang giá trị hiện thực của một cuộc tình mà mình là người trong cuộc. Hư cấu nhân vật và đặt nhân vật trong một bối cảnh đau thương, tan vỡ là môtip của hầu hết nhân vật trong các thể loại văn học. Đấy cũng là một trong những tiêu chuẩn để “ăn khách”. Điều này, chúng ta có thể thấy rõ nếu tờ báo nào đăng người tốt, việc tốt thì chắc chắn báo ế nhề, ế nhịt so với tờ báo đăng người xấu, việc xấu.
Riêng với trường hợp báo chí ngày xưa thì như thế nào?
TT đã kể với Hồ Thông “Trong lửa đạn thù” (sđd tr 190): “Nhờ ở bài viết của Thanh Châu, và cũng do những gợi ý của ông Vũ Đình Long, tôi đã nẩy ra ý tưởng ngộ nghĩnh là viết một loạt bài về những vấn đề đang ăn khách hiện nay: cảnh ép duyên con cái với những nét chấm phá bi thương giữa hạng giàu kẻ nghèo trong xã hội; tục tảo hôn nơi xóm làng: gái 15 phải lấy ông già 60 hoăc cô gái 17 phải lấy một cậu bé 4, 5 tuổi con nhà giàu… Cái éo le, mất hạnh phúc sau đó, chằng chéo nhau làm cho con người phát sinh rất nhiều hệ lụy chua xót”.
Cho dù Khánh, T.T.Kh hay một tổ hợp quen biết của TT làm bài thơ này thì nguồn cảm hứng được ghi nhận từ “Hoa Ti-Gôn” của Thanh Châu: “Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết. Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa”. Tức là hơn tháng sau, T.T.Kh mới nói rằng đã đọc được truyện (không phải tiểu thuyết) của Thanh Châu. Đó là sự thật không thể nào phủ nhận. Vấn đề ở đây là nảy sinh những điều ấm ớ từ các bài thơ của T.T.Kh.
Thơ T.T.KH xuất hiện năm nào?
NTL trong “T.T.KH.” (VNTNTCTT, sđd tr 399) có đăng trích bài viết của Anh Đào “đăng trên báo Nhân Loại bộ mới số 108 tháng 7/1958”. Anh Đào đã… đào ra được mấy câu thơ trong BTTN, BTCC của T.T.Kh:
Biết đâu tôi, một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
(Hà Nội Báo, số 22, 3-6-36) (Bài thơ thứ nhất)
Buồng nghiêm thơ thẩn hồn eo hẹp,
Đi nhớ người không muốn nhớ lời.
(Hà Nội Báo, số 15, 15-4-36) (Bài thơ cuối cùng)
Càng chết dở! Năm 1936 mà T.T.Kh nhà ta đã có thơ trước truyện ngắn Thanh Châu rồi! Nếu Anh Đào thực sự… đào trúng huyệt phần quật xác T.T.Kh lên thì toàn bộ những gì từ trước đến nay viết về T.T.Kh hay Thâm Tâm, Trần Thị Vân Chung phải… chôn lại vào huyệt trống!?
Năm 1936, theo Anh Đào, T.T.Kh đã lấy chồng mà chồng trước đó những ba năm tức 1933. Thời điểm này, Thâm Tâm mới 16 tuổi đã bị… bồ đá, còn nếu T.T.Kh là Vân Chung mới…14 tuổi đã bị… chồng lấy! Vậy câu “Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết”, T.T.Kh 14 tuổi “thần thơ” này đã xem tiểu thuyết của ai chứ có phải của Thanh Châu đâu?
Anh Đào tức là Đào Tiến Đạt. Nguyễn Thạch Kiên trong “Huyền thoại về nàng thơ T.T.KH.” (VNKNQH, sđd tr 28-29) biết rõ: “Dịp này tôi được nghe, được biết về một huyền thoại trong thi ca Việt Nam: hiện tượng nàng thơ T.T.KH. đang được huyên truyền, xôn xao trong dư luận mấy năm trước… Tôi cố công dò hỏi. Và được rõ một số điểm cần biết qua bạn hữu của Thâm Tâm cũng như các văn nghệ sĩ Hà-Nội, trong số đó có nhà thơ Đào Tiến Đạt, tác giả Mấy nét thơ – Giải khuyến khích về Thơ năm 1939 do Tự Lực Văn Đoàn tổ chức”. NTK chú thích thêm: “Đào Tiến Đạt, nhà thơ, phục vụ trong ngành Hỏa Xa Đông Pháp. Năm 1949 đăng thơ trên tờ Thời Sự Chủ Nhật ở Hà-Nội ký dưới bút hiệu là Anh Đào. Di cư vào Nam, tiếp tục làm trong ngành Chuyên Chở Công Cộng (Hãng xe ô-tô-buýt của thành phố) rất thân với tác giả. Ông mất tại Sài-Gòn trước 1975”.
Tờ báo Nhân Loại mà Nguyễn Tấn Long đề cập tới đó là của Anh Đào làm chủ nhiệm kiêm chủ bút từ năm 1952 như Vũ Đình Long vừa chủ nhiệm kiêm chủ bút TTTB từ 1934. Một chủ bút mà thông tin mờ ớ như vậy sao?
T.T.Kh đã xuất hiện trên Hà Nội Báo từ năm 1936 theo Anh Đào là một thông tin rất đáng chú ý và rất quan trọng. Bởi vì nó đúng, nó sẽ phủ nhận sạch bách Huyền thoại T.T.Kh năm 1937 – 1938 và những cuốn sách, những bài viết “ăn theo” cũng… cười ra nước mắt, thẹn với người xưa. Nếu nó sai, nền Văn học Việt Nam lại phải mua thuốc tẩy để tẩy đi thêm những chữ viết bậy trên tường! Sách in sai, tác giả tuyển nhầm cũng lâm trận tiền là kẻ hại thanh danh, xúc phạm nhân thân người đã khuất! Phía nào cũng không tránh “thiên cổ tội nhân”!
Rất tiếc là không có ai đọc được HNB với TTTB. Đây là hai tờ báo duy nhất vừa là vật chứng vừa là nhân chứng. Nếu cả hai được mở ra thì tất cả vu vơ, cà pháo về “Huyền thoại T.T.Kh” phải khép lại vĩnh viễn! Sự kiện Anh Đào coi như không nguồn chính xác nên cho nó theo gió theo mây trôi đi đâu thì đi…
- Bài thứ 2:
Bài thơ thứ nhất
Thuở ấy hồn tôi phơi phới quá,
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương…
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại,
Êm ái trao tôi một vết thương.
Tai ác, ngờ đâu gió lạ qua,
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
Thổi tan âm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình,
Tôi yêu lá rụng lúc tàn canh,
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác,
- Gió hỡi! Làm sao lạnh rất nhiều.
Từ đấy không mong, không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm,
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ,
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em!
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên,
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Rỏ xuống thành thơ khóc chút duyên?
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ!
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ…
Thì ai trông ngóng chả nên chờ!
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi vẫn nhớ hẹn nhau xưa:
- “Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ!”
Tôi run sợ viết, lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến.
Song đời nào dám gặp ai về!
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa, than ôi!
Biết đâu… tôi một tâm hồn héo,
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!
(Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 182, 20-11-1937)
Nội dung nhân vật trong bài thơ là nhân vật của tác giả.
Mang âm hưởng của HSHTG, bài thơ này đã ngậm ngùi nhắc lại trong hai khổ đầu một vết thương lòng đau nhói vì chia xa. Tám đoạn sau chuyển sang tâm trạng vừa muốn đối diện vừa muốn lẩn trốn quá khứ với hình ảnh người yêu cũ đang theo ngày tháng lớn dần lên trong ký ức với hơi thơ bỗng như mỉa mai…
T.T. Kh một lần nữa khắc họa hình ảnh người yêu cũ của nhân vật “Tôi” trong bài thơ với sự chắc chắn:
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ,
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em!
Thật tội nghiệp cho một niềm tin thơ ngây làm cho Xuân Diệu cũng ái ngại dùm trong ”Giục giã”:
Ai nói trước lòng anh không phản trắc
Mà lòng em sao lại chắc trơ trơ?
Tình yêu dù biết nó có lý lẽ riêng của nó từ lâu nhưng ở đời có cái gì là bền vững đâu vậy mà khối người đã tin đến mù quáng. Niềm tin này đã đi vào máu thịt cũng vì vậy mà những ai nếu đã yêu càng sâu thì đau càng nặng khi rơi vào hai cảnh hai lòng như Huy Cận trong “Vạn lý tình”:
Người ở bên trời, ta ở đây
Chờ mong phương nọ, ngóng phương này.
Mượn câu của Ts. Chu Văn Sơn trong bài viết về TBH của TT để nói về cái quả quyết chắc chắn trên của nhân vật nữ của T.T. Kh: “Người thiếu thông cảm chỉ thấy bề ngoài, người tri kỷ thì thấu từ gan ruột mà ra”. Với hồi ức của nhân vật tác giả T.T.Kh, tình yêu của họ đã đến giai đoạn vô cùng thắm thiết thì… tan vỡ! Nhớ thương, dằn vặt, tự trách là tiếng lòng của kẻ yêu mà xa. T.T.Kh đã để cho nhân vật “Tôi” thở dài, bối rối:
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
– “ Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ!”
Tự khuyên mình, tự vực mình đứng dậy, nhân vật của T.T.Kh cũng có sự đồng điệu với Thu Hồng qua “Mảnh hồn thơ” cũng khuyên nhủ:
Ðừng sầu lá rụng, khóc hoa rơi
Ðừng than thở tiếc ngày qua chóng.
Thái Can cũng khuyên nhủ với người yêu trong “Quên”:
Đã hẹn với em rồi, không tưởng tiếc
Quãng đời xưa, không than khóc gì đâu!
Thế nhưng, tất cả đã “phạm quy” hết rồi, đã nghĩ về nhau mất rồi. Lời thơ đã trào ra rồi. Dòng thơ đã viết ra rồi:
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Đây là hai câu thơ hay nhất (đoạn thứ 6) trong 10 đoạn của bài thơ với sự chọn lựa, chắt lọc từ kỹ càng đến mức “cực xảo” về nội tâm với giọt nước mắt đã cạn cùng, nỗi nhớ thương về kỷ niệm đã tan ra, vỡ ra, rớt xuống…
Người thơ nhặt được. Có người nâng niu, đưa lên thành “Cô gái vườn Thanh” hay “Dòng dư lệ” như Nguyễn Bính. Có người “vấp” nó giữa đường, lượm lên, cười cợt trong “Các anh, Màu máu Ti-Gôn” ký Thâm Tâm.
Trong dòng nhạc, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh “Khi người yêu tôi khóc” đã rung động: “Khi người yêu tôi khóc, trời cũng giăng sầu. Cho từng cơn mưa lũ xoáy trong tâm hồn. Khi người yêu tôi khóc thành phố buồn thiu”. Trong thi ca, Nguyễn Du đã biến giọt nước mắt trên “nét hoa” của Thúy Kiều khi khóc Đạm Tiên thành “châu sa“:
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
Nguyễn Du cũng biến dòng thu của Kiều thành “giọt ngọc” khi khóc Từ Hải:
Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng.
Nâng niu làm sao! Trân trọng làm sao! Quý giá biết bao! Dù cho Nguyễn Bính có thấy rằng:
Tặng người gọi một dòng thơ
Hay là dòng nước mắt thừa đêm qua.
trong “Cô gái vườn Thanh” hay “Dòng dư lệ” thì người đọc cũng nghe thương yêu, cay đắng lắm vì hai câu thơ đắng cay nằm trong bài thơ đắng lòng, toàn những lời chân thật, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Bính dành cho cô gái tội nghiệp nọ:
Đau thương qua mấy nhịp cầu
Cạn dòng nước mắt còn đâu khóc người.
Trong khi đó, người ký Thâm Tâm phun ra toàn những lời “máu lạnh” trong “Các anh”:
Bao nhiêu hạt lệ còn thừa
Hãy dành mà khóc những giờ vị vong.
Trời ơi! Người ta chắt nuớc mắt “ép” thành dòng thơ có nghĩa bóp trái tim vỡ máu để yêu thương vậy mà kẻ làm “người ấy” kia “cạn máu tanh lời” cho đó là “hạt lệ còn thừa” sao mà gọi là tri kỷ, tri âm? Người yêu tầm thường như thế sao nhân vật của T.T. Kh có thể yêu trong mù đui mà không phát hiện ra?
Cái “người ấy” của nhân vật T.T. Kh là một người biết ngắm cả cái “lạnh lùng” (với “người ấy“, “cái lạnh lùng” cũng có hồn) nên nàng mới yêu thiết tha đến vậy. Nếu không, ai mà đi chắt ép ruột gan phèo phổi mình để mà… dâng hiến cho một người coi tình yêu như gió thoảng mây bay, cười tình cũ đã cạn ngày, cạn tháng!
Tình yêu một chiều không lấy sự thật lòng làm gốc rễ thì dẫu có đến trong bình minh thì cũng theo hoàng hôn ra đi mà thôi!
Nhân vật “Tôi” của T.T. Kh nào hay biết gì, vẫn yêu không đổi trong BTCC.
Đấy là chúng ta đang rung cảm với nhân vật của tác giả.
Còn đây nội dung nhân vật hiện thực là Khánh (theo Phạm Văn Hòa, Hoàng Tiến…) trong hai đoạn sau:
Tai ác, ngờ đâu gió lạ qua,
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
Thổi tan âm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình,
Tôi yêu lá rụng lúc tàn canh,
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Nếu Khánh là người viết bài thơ này hồi ký cuộc tình mình thì cô cũng… xạo pà cố! Khánh than rằng vì “tiễn người đi bến cát xa” để dẫn tới cô phải “Ở lại vườn Thanh có một mình”.
Thực sự có như vậy không?
Nguyễn Vỹ trong “Thâm Tâm và sự thật về T.T.KH. (sđd tr 260) kể rằng: “Thế rồi một hôm, chàng họa sĩ đa- tình nhận được một bức thư của người yêu, không- của người hết yêu- báo tin nàng sắp lấy chồng. Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học- trò… Thư do một cô bạn gái của Khánh đem đến tòa báo Bắc- Hà trao tận tay Tuấn- Trình… Đại-khái Khánh nhắc lại tình-yêu ‘ thơ mộng’ của cô với ‘người nghệ- sĩ tài hoa son trẻ’ (những chữ cô dùng trong thư), tình-yêu rất đẹp, nhưng vì Thầy Mẹ của cô rất ‘nghiêm’, theo lễ -giáo, nên dù vị hôn-phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi, nhưng cô vẫn có bổn phận ‘giữ tròn chữ hiếu, không dám cãi lời Thầy Me đặt đâu ngồi đấy v.v…” Cô nói cô buồn lắm vì tình –yêu dang- dở, ‘em vẫn yêu anh mãi mãi’! không bao giờ quên anh, nhưng ‘van anh đừng giận em, thương hại em, chứ đừng trách móc em v.v…” Cô than thở đời cô khổ nên tình-duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm…”.
Cô đi lấy chồng chứ có tiễn TT đi “bến cát xa” nào? Thời 1935 – 1936 – 1937, TT đi đâu mà cô phải tiễn? Cô đi lấy chồng thì theo chồng về nhà chồng cho đúng tập tục lễ nghi phong kiến như thư cô viết cho Tuấn Trình: “theo lễ giáo… ” cô vẫn có “bổn phận giữ tròn chữ hiếu, không dám cãi lời thầy mẹ đặt đâu ngồi đấy” (Nguyễn Vỹ, sđd). Tất nhiên, thầy mẹ cô đằng nào không biết câu: “Tại gia tòng phụ. Xuất giá tòng phu. Phu tử tòng tử”? Cô Khánh vừa chia tay TT cuối mùa thu 1936 thì cô lấy chồng liền và một năm sau thì hồi ức bằng thơ cuộc tình mình?! Thời gian nào cho cô ở vườn Thanh để than khóc mối tình dang dở của mình? Nếu không phải chỉ còn TT “ở lại vườn Thanh có một mình” thì chẳng phải Khánh.
Còn hai câu đầu trong đoạn này:
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên,
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên?
Ta có thể diễn xuôi: Cô Khánh hay T.T.Kh muốn được yên thân, nghĩa là muốn quên mối tình này thì ai đó “mang lại cánh hoa tim” tức nhắc tới hoa Ti-Gôn?
Dòng dư lệ?
Nếu hiểu theo ý nghĩa từng từ một, thì “dòng dư lệ” mà T.T.Kh dùng, hóa ra chính là “dòng nước mắt thừa” (over tears). Nước mắt quá nhiều mới dư, mới thừa. Lại nữa, động từ “ép” ở đây dùng có vẻ “nhân tạo” nhiều hơn là dòng nước mắt tự nhiên. Tức là khóc giả đò. Khóc giả vờ, khóc giả đò nên mới ráng… rặn, ráng ép, ráng chắt thêm nữa cho người ta mủi lòng! Xảo ngôn thì gọi là “dòng dư lệ”!
Dòng lệ tràn nhiều thì chẳng cần chi mà “ép nốt“. Dòng lệ thì chảy tràn chứ không thể nhiễu ra từng giọt. Trong thơ, nhân vật này đã không khóc được mà cứ cố khóc nên mới “ép“. Nếu nước mắt thiệt thì không cần dùng các động từ, tính từ trợ giúp thì nó vẫn trào ra, nhỏ giọt ra như thường.
Chỉ là hai câu kiểu cách của một loại thơ ngày xưa. Ngôn ngữ này, chúng ta thấy rõ trong các sáng tác của nhóm “Tự lực văn đoàn” hay nhóm “Thơ Mới”.
Trong cuộc tình của TT và Khánh, không chi tiết của bất cứ nguồn nào kể cả TT cho rằng Khánh từng khóc nhất là khóc vì phải chia tay với TT ngoài Nguyễn Vỹ kể chuyện về bức thư của Khánh mà TT đã nhận.
“Ai” ở đây là ai?
- Là Thanh Châu? Nếu đúng nữa, ai ở đây là cái người viết truyện “Hoa Ti-Gôn” cho T.T.KH viết HSHTG khơi lại mối tình xưa? Thế nhưng,“con kiến mà leo cành đa”, bài thơ đó có hai câu này: “Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết. Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa”. Xúc cảm từ truyện “Hoa Ti-Gôn” của Thanh Châu nên T.T.Kh mới làm bài HSHTG chứ ai? Ai đây chính là Thanh Châu. Một đại từ “Ai” phiếm chỉ hoàn toàn ngẫu nhiên.
- Là chính… T.T.Kh?: Tự mình phủ định mình: “Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên. Bỗng ai mang lại cánh hoa tim… “?! Vậy, “Ai” ở đây là đâu còn là Thanh Châu nữa mà chính là… T.T.Kh?
Nếu cả hai đại từ phiếm chỉ “Ai” trong hai bài thơ cùng một tác giả này đều hướng về Thanh Châu để viết ra hai bài thơ giống nhau nội dung thì dư thừa. Người khác viết với chủ để hoa Ti-Gôn và tình yêu này thì không sao. Chúng ta phải cho thật thông trong đầu chỗ này thì mới thấy có sự lạ. Hai tác giả từ nguồn “ai” Thanh Châu để viết ra hai bài thơ, không vấn đề gì! Một tác giả, viết “ai” một Thanh Châu ngẫu nhiên, một Thanh Châu bị hờn trách? Vô lý ngay. Đại từ phiếm chỉ “ai” trong BTTN được hiểu phải là người trong cuộc chứ không còn là ngẫu nhiên nữa. Cho nên, nó xuất hiện hai lần trong BTTN: “Bỗng ai mang lại cánh hoa tim” với “Thì ai trông ngóng, chả nên chờ”. Không lẽ “ai” này T.T.Kh dùng để ám chỉ Thanh Châu!? Thật lãng!
Chỉ còn T.T.Kh tự hờn T.T.Kh trong BTTB? Điều đó nếu ngược lý, chúng ta mới “tóm” được “cái đuôi”. Một tác giả ngẫu nhiên khi đọc Thanh Châu mà viết HSHTG với một sự rung động thật lòng. Một tác giả “giả hờn” HSHTG mà có BTTN. Họ là… người trong cuộc… mà cuộc… chơi thôi!
Một tác giả viết, không thể có một chuỗi mâu thuẫn, không thống nhất như trường hợp T.T.Kh mà Hoàng Tiến ghi lại lời kể của Lương Trúc: “Tiếp đó để giải thích lý do viết bài Hai sắc hoa ti-gôn, T.T.Kh. gửi đến Tiểu thuyết thứ bảy một bài nữa, với tiêu đề là Bài thơ thứ nhất và viết riêng gửi tặng Thâm Tâm bài thơ Đan áo… Thâm Tâm hồi ấy còn trẻ, với tính hiếu thắng của tuổi trẻ, ông đã gửi báo Phụ nữ đăng bài thơ Đan áo để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Tất nhiên không có sự đồng ý của T.T.Kh.
Và thế là T.T.Kh. giận, cô viết bài thơ lấy tiêu đề Bài thơ cuối cùng gửi đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy, vừa hờn vừa giận đầy yêu thương, và cũng từ đấy T.T.Kh. “tắt lịm” trên thi đàn…” (Hoài Việt, Thế Nhật, sđd).
Chúng ta xét tiếp bài thơ cuối cùng (4 bài thơ của T.T.Kh có hai nội dung nên người viết đưa “Đan áo cho chồng” tạm xếp qua nội dung khác, tiếp bài này) để thấy sự mâu thuẫn, không thống nhất đó trong cùng một tác giả.
- Bài thứ ba (Tức là bài thơ thứ tư – BTCC của T.T.Kh):
Bài thơ cuối cùng
Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ, một lòng đau…
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời có nói đâu!
Đã lỡ, thôi rồi chuyện biệt li,
Càng khơi càng thấy lụy từng khi.
Trách ai mang cánh “ty gôn” ấy,
Mà viết tình em, được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng,
Bài thơ ”đan áo” của chồng em.
Bài thơ “đan áo” nay rao bán,
Cho khắp nguời đời thóc mách xem…
Là giết đời nhau đấy, biết không?
… Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung,
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương điệu cuối cùng!
Từ đây, anh hãy bán thơ anh,
Còn để riêng tôi với một mình,
Những cánh hoa lòng… hừ đã ghét,
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi…
Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp,
Đi nhớ người không muốn nhớ lời!
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
Tôi run sợ viết bởi rồi đây
Nếu không im được thì tôi… chết
Đêm hỡi! Làm sao tối thế này?
Năm lại qua năm cứ muốn yên
Mà phương trời gió chẳng làm quên,
Và người vỡ lở duyên thầm kín
Lại chính là anh, anh của em!
Tôi biết làm sao được hỡi trời?
Giận anh, không nỡ nhớ không thôi
Mưa buồn, mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh… có một người…
(Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 217, 23-7-1938)
HT – HC trong TNVN không đề cập đến bài này và cho rằng T.T.Kh chỉ có hai bài thơ HSHTG và BTTN mà thôi. Các tác giả có sách trên đều thống nhất: T.T.Kh có 4 bài thơ. Còn Anh Đào (NTL, sđd tr 431) cho T.T.Kh còn một bài “Trả lại cho đời cánh hoa tim”. Hư thực thế nào, ta vẫn đi theo quan niệm cho T.T.Kh có bốn bài từ 1937 – 1938.
Không biết ngẫu nhiên hay chủ ý mà T.T.Kh lấy đầu đề BTTN không có bài thứ hai, ba, tư… tiếp theo mà chỉ tiếp BTCC này rồi biến mất tăm, mất tích. Đầu đề BTCC giống như Xuân Diệu khẳng định “Tôi chỉ có một tình yêu thứ nhất” và nghĩa là tình yêu dành cho em (anh) cũng thật sự cuối cùng.
Trong BTCC, nhân vật nữ của T.T. Kh nghĩ về “người ấy” của mình ra sao?
Thêm một đại từ “ai“:
Ngôn từ bóng gió hàm ý sâu sa “người ấy” trong HSHTG và BTTN sang BTTC đã chuyển thành “anh” trong trách móc, hờn giận lẫn thương nhớ. Nàng trách vì sao “người ấy” viết về Ti-Gôn:
Trách ai mang cánh ‘ti gôn” ấy,
Mà viết tình em, được ích gì?
“Ai mang cánh Ti-Gôn” để viết tình của T.T.Kh?
Đến bài này, nhân vật hư cấu hay nhân vật thật đều… chui vào một chốn màng nhện bịt bùng!
+ Nàng trách Thanh Châu? Không thể nào! Truyện ngắn Thanh Châu đã qua hơn một năm. Truyện này chẳng viết gì đến “tình em” với “tình anh” cả. Có thông chỗ này, nghĩa là cảm xúc ngẫu nhiên của T.T.Kh từ Thanh Châu đã không còn dính líu, dây nhợ tới các bài BTTN, BTCC, chúng ta mới dễ hiểu bí ẩn. Các bài thơ ký T.T.Kh ra đời sau đó và bài này dắt dây như trẻ nhỏ cầm tay dung dăng, dung dẻ mới khiến cho T.T.Kh viết BTCC. Tức là T.T.Kh1 nào đấy đã… chọc ổ kiến bò nhọt T.T.Kh.
+ T.T.Kh1 trách… tác giả viết HSHTG và BTTN?
Sao kỳ vậy? T.T.Kh viết cả hai bài thơ ấy đó chứ? Bây giờ trách ai viết “tình em“? T.T.Kh có phải “tóc úa giết dần đời thiếu phụ” nên lầm lẫn chăng? Còn nữa, nàng nhắc đến bài “Đan áo cho chồng” chính nàng viết:
Chỉ có ba người đã đọc riêng,
Bài thơ “đan áo” của chồng em.
Lạ thật, nếu là nhân vật của tác giả thì T.TKh đã để nhân vật mình quên mất bài thơ nào mình viết, bài nào ai viết và ngay cả anh chồng tội nghiệp “luống tuổi” cũng trở thành tác giả bài thơ “Đan áo của chồng em“. Ba người đọc là ai? Nàng, chàng và chồng? Hay nàng, người chị và chàng? Rối rắm quá! Nàng cho rằng sau khi ba bài thơ trên ra đời đã gây tác hại vô cùng khi cuộc tình đã bị “rao bán”:
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem…
Là giết đời nhau đấy, biết không?
Như vậy, xét về phương diện tác giả, “Đan áo cho chồng” ký T.T.Kh không phải của T.T.Kh. Nếu là cùng một người, sao có thể mình lại nổi tam bành với mình thế?
Động cơ nào khiến T.T.Kh viết BTCC?
T.T.Kh nêu ra lý do vì giận ”người ấy” mang bài thơ đan áo của chồng ra rao bán mà làm BTCC. Tức là sau ba năm im như thóc thì T.T.Kh mới “phun lửa” một bài này thôi.
Hiểu tới đây, chúng ta sẽ thấy Phạm Quang Hòa kể chuyện mà không suy nghĩ: Tại sao Khánh không tặng TT hai bài thơ HSHTG, BTTN mà lại tặng bài thơ “Đan áo“? Bài thơ này nội dung rất chung cho những người con gái bị ép duyên trong bất cứ thời đại nào cũng có nhất là thời đại phong kiến. Nó chẳng có giá trị “rao bán” mối tình của Khánh và TT. Người “rao bán” tình mình chẳng ai khác hơn, chính là cô “Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Hai người yêu nhau nhưng biết không lấy được nhau, hẹn nhau giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này…” như Lương Trúc – Phạm Quang Hòa đã kể cho Hoàng Tiến, Trần Lê Văn, Tú Sót nghe. Cô Khánh này đã (như lời kể trên và như bài thơ với bút hiệu T.T.Kh đã ghi) làm hai bài thơ bán rao tình mình trên báo TTTB. Nếu đó là sự ngược lý của cô Khánh – T.T.Kh, đây cũng là mấu chốt để “tóm” cái đuôi “tổ hợp thơ” T.T.Kh mà TT là người trong cuộc đã “im như thóc”!
Nội dung cơn giận của nhân vật thơ:
Trong cơn giận, người ta thường hay trẻ con mà Xuân Diệu hay gọi là làm ”nư”. Với người con gái thì nàng quyết liệt hơn bằng ”tối hậu thư”:
Giận anh, em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương, điệu cuối cùng.
Với cơn giận không tên như thế của người yêu, người tri kỷ không thể làm ngơ nên đành ”xuống ngựa” như Châu Thái Lê trong ”Vùng trời thương hận”:
Em còn hận, đầu ta đây hãy trút
Cho oán thù vẩn đục cả dòng sông.
Cuối cùng, dòng sông là kẻ chịu đựng sự trừng phạt thay cho con người để cho họ có được chút dư hương dù chỉ là ”dư hương điệu cuối cùng”!
Nếu êm ái như thế, ai nói làm gì!
Lại mâu thuẫn trong nhân vật thơ?
Ta thật sự không hiểu nổi mới trong BTTN, nhân vật “Tôi” đã xin: “Cho tôi ép nốt dòng dư lệ, nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên” thì còn ”dòng dư lệ” nào nữa để mà chắt ra, để vì ”giận anh” mà viết? Hóa ra, dòng dư lệ nàng ép trong đau đớn kia chỉ vì giận cái người làm thơ Ti-Gôn, viết tình nàng “rao bán“. Thế nhưng, nàng viết chứ ai viết mà “giận anh”? Anh ở đây nào có phải là Thanh Châu? Anh ở đây là anh đã viết hai bài HSHTG, BTTN, ĐACC để bán rao tình nàng. Thanh Châu bị oan mà TT “có miệng ăn mà không có miệng nói”. Trời cho mỗi một cái miệng. Chịu ăn thì nhịn nói. Có người chịu nhịn ăn mà nói hay sao? Có thực mới vực phát ngôn!
Đây là điểm mấu chốt thứ hai để tìm ra chủ nhân bài thơ này đã không để ý đến tính thống nhất của văn bản, nghĩa là có kẻ “vừa đốt nhà vừa la làng”!
Cơn giận mâu thuẫn của nhân vật Kh – T.T.Kh đồng tác giả:
Ta xét câu này:
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời, có nói đâu!
“Câm lời” có nghĩa là “im như thóc“. Tức là không hở môi, hở miệng, không nói. Thế nhưng viết cũng là “ngôn ngữ nói” của con người. Sau khi câm nín 3 năm, nàng như núi hỏa diệm sơn ngủ yên, bất chợt thức giấc… phun ra bốn bài thơ ký tên T.T.Kh đã một năm qua gây sóng gió trên văn đàn và kích động sự tò mò của độc giả vì “bài thơ được đăng báo. Được phổ biến. Được truyền tụng khắp nơi. Độc giả xôn xao” và “Rất nhiều người còn muốn được gặp mặt Nàng… Người ta đòi hỏi, mong mỏi, đợi chờ” (“Về những kỷ niệm quê hương“, tr 82, 190)? Thế sao mà cho mình “câm lời, có nói đâu“, chỉ… viết thôi ư?
Tác giả BTCC này mới thật là T.T.Kh? T.T.Kh tức Khánh (nếu người đời cho cô Khánh là tác giả) im lặng trong ba năm, nay đọc thấy người ta viết về mình hoài nên.. xung thiên… mắng mỏ “thằng người yêu bố láo” ấy cho một trận. Thế nhưng, muốn chứng minh rằng mình là người “câm lời” không nói, không làm ba bài thơ “giết đời nhau” kia thì tại sao nàng không lấy bút hiệu khác mà cứ khoác cái bút hiệu đã có người đội lên cho sự việc rắc rối thêm ra như mớ bòng bong? Nàng tự nhận mình là Khánh đấy sao? Những dấu hỏi cong queo này sẽ từ từ bị nội dung các bài thơ nhiều tác giả… đẵng cho hết cong!
Thanh Châu trong vụ này không hề liên can tí nào vì ông ta chẳng hề dính líu gì tới bài thơ “Đan áo cho chồng” gây tai họa cho T.T.Kh để nàng sau ba năm câm nín phải “run sợ viết” rồi mất hồn “nếu không im được, không yên đưọc thì tôi chết“! Nội dung giận dữ, trách hờn chỉ từ các bài thơ ký T.T.Kh ra mà thôi!
Hiểu từ chỗ mâu thuẫn này mới thấy thông tin năm 1994, Thế Nhật cho Thanh Châu là người yêu của T.T.Kh là gán ép. Thanh Châu làm sao mà mang bài thơ ĐACC tức BTĐA của T.T.Kh đăng lên Báo Thời Đàm? Chi tiết nào chứng tỏ T.T.Kh tặng bài thơ lục bát này cho Thanh Châu?
Thật ra, nơi phương trời nào đó người con gái tên Kh cũng đã không còn dám mơ mộng khi có một người chồng mà nàng phải sống vì lễ giáo. Nguyễn Khuyến buồn thời cuộc nên có những bài thơ “Tự thuật”, “Tự trào” để tự nói, tự an ủi mình, ta không lạ. Ta chỉ lạ cho cái người viết những bài thơ tình ướt át đầy đắng cay kia lại không hề nghĩ mình đã “sinh con” mà cho người khác “đẻ con” rồi bán con mình mà ra “tự trách”! Giọng thơ sau khi trách móc xong chuyển tông xưng “tôi” thật lạnh lùng với cái từ “hừ” nặng trịch rớt xuống:
Những cánh hoa lòng… hừ đã ghét,
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
“Những cánh hoa lòng – tình yêu trái tim” đem đi đánh đổi nó để lấy cái ảo vọng tiếng tăm bề ngoài. Kỳ quặc nữa. Nàng trách ai nếu không là lời tự trách mình. Âm điệu này mang nặng khẩu khí hậm hực, bất cần. Chúng có phải là tiếng lòng của một cô gái chỉ biết yêu thương kia trong thời buổi loạn ly hay chỉ là tiếng lòng của người con trai thời loạn như Châu Thái Lê:
Ta bây giờ mọi sự nhẹ như không
Ðời mấy kẻ bận lòng người ngã ngựa.
Trong các bài thơ trên của T.T.Kh, nhất là BTCC cảm giác hờn giận, thương yêu, trách móc lập đi, lập lại không lối thoát. Chị Dậu của Ngô Tất Tố đã sống trong “Tắt đèn“. Thị Nở trong ”Chí Phèo” của Nam Cao cũng lẩn quẩn trong cái lò gạch. Người phụ nữ của T.T. Kh cũng chập chờn trong bóng đêm:
Nếu không yên được thì tôi… chết
Đêm hỡi! Làm sao tối thế này?
Con người nếu không thoát ra được cái vòng kềm kẹp của những giáo điều, những luật lệ “thâm căn cú đế“, của những cuộc chiến tranh làm bần cùng cuộc sống… thì cũng đồng số phận với những kẻ không quyết định cho mình một cuộc sống hạnh phúc vốn đã phải có nên tất cả rơi vào “bước đường cùng“!
Xét về nội dung cho nhân vật của tác giả: Bài thơ gồm 9 khổ với những mâu thuẫn đan chéo kia: Tình yêu và bổn phận; giữa bổn phận và khát vọng… đã không dừng lại ở chỗ đơn giản là những lời tình tự mà còn là một tiếng kêu thương cho số phận con người trong nghịch cảnh trái ngang mà ta cần hiểu rõ nguyên nhân để có hướng giải quyết! Trước hết, ta hiểu là tiếng thở than nếu không tự mình cởi trói cho mình trong ĐACC:
b. T.T. Kh than thân:
- Bài thứ tư (bài thứ ba theo thứ tự của T.T.Kh):
Đan áo cho chồng
“Chị ơi! Nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương,
Đã xa hẳn quãng đời hương,
Đã đem lòng gởi gió sương mịt mùng.
Biết chăng chị? Mỗi mùa đông,
Đáng thương những kẻ có chồng như em.
Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
Đan đi đan lại áo len cho chồng.
Như con chim hót trong lồng,
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ.
Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
Than ơi! Gió đã sang bờ ly tan…
Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
Như con chim nhốt trong lồng,
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao!
Ngoài trời mưa gió xôn xao,
Ai đem khóa hết chim vào lồng nghiêm?
Ai đem lễ giáo giam em?
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời?
Lòng em khổ lắm chị ơi!
Trong bao tủi cực với lời mỉa mai.
Quang cảnh lạ, tháng năm dài,
Đêm đêm tưởng tới ngày mai, giật mình!”
(Phụ Nữ Thời Đàm – 1938)
Năm tháng và nơi đăng của bài thơ? 2 ý kiến
+ NTK không ghi ngày tháng. Ông viết: “Bài Đan áo cho chồng quá kém, vẫn được gửi đăng trên tờ Phụ Nữ Thời Đàm, sau đó được nhà thơ J. Leiba cho in lại trên Ngọ Báo với bốn câu thơ đề tặng T.T.KH.
“Anh chép bài thơ tự trái tim
Của người thiếu phụ lỡ làng duyên
Lời thơ tuyệt vọng ca đau khổ
An ủy anh và để tặng em”
J.Leiba
(“Về những kỷ niệm quê hương”, sđd tr 80-81).
Nhưng NTK trong “Huyền thoại về nàng thơ T.T.KH.” (sđd tr 29) lại ghi rằng: “Nhận được nhiều thư từ độc giả tò mò hỏi han, Thâm Tâm lần lượt cho đăng các bài thơ: Gửi T.T.KH., Dang dở, Màu máu Ty-gôn… Và J. Leiba cũng nhảy vào hỗ trợ bằng cách in lại bài Hai sắc hoa Ty-gôn trên tờ Ngọ Báo với mấy câu phụ đề:
Anh chép bài thơ tự trái tim
Của người thiếu phụ lỡ làng duyên
Lời thơ tuyệt vọng ca đau khổ
An ủy anh và để tặng em.
Như vậy, J. Leiba tặng bốn câu cho hai bài thơ của T.T.Kh? NTK có nhớ nhầm không?
+ Thanh Châu có ghi năm“Nói thêm về T.T.KH.”(“Về những kỷ niệm quê hương”, sđd tr 176): “Đã thế lại còn bài Bài thơ Đan Áo (1938). Ai đã đem bài thơ này của TT.T.Kh. đăng lên báo Phụ Nữ Thời Đàm (phố Hội Vũ)?
Không thấy tài liệu nào nói về báo “Phụ Nữ Thời Đàm” của ai? Những cộng tác viên nào? Tin tức về bài “Đan áo cho chồng” hay “Bài thơ đan áo” là của T.T.Kh do người đầu tiên nào đã đọc được, chép lại và nguồn?
Chúng ta xét về giá trị nội dung của nhân vật trong bài thơ:
- ĐACC: Tiếng thở dài đêm đông hay nỗi lòng của kẻ…”ngoài cuộc”?
Căn cứ theo lời trách móc của nhân vật nữ trong BTCC, BTĐA này được viết trước BTCC. Bởi chính vì nó mà BTCC mới được tung ra. Tạm hiểu: Hai bài thơ HSHTG, BTTN được tác giả X làm (tác giả X này còn có thể là X1, X2). Bài ĐACC tiếp đó được tác giả Y làm vì khác nội dung, khác thi pháp, xa ý tưởng. Sau đó, tác giả X bị tác giả… X “nhiếc” bằng BTCC?? Đây chính là “huyệt hở”. Bởi vì, theo bút hiệu, ẩn số X, Y gì cũng là X, tức T.T.Kh cả. Chúng ta xem xét ĐACC theo hướng này để tìm ra mâu thuẫn tiếp theo cho bốn bài thơ cùng một tác giả.
“Người” và “Người ấy” trong thơ của T.T.Kh biến mất trong ĐACC:
Ta thấy chỉ còn lại đại từ phiếm chỉ “Ai” không còn là ngẫu nhiên khi, T.T.Kh đọc truyện “Hoa Ti-Gôn“, chẳng phải là hờn trách của tình yêu khi T.T.Kh chính mình kể chuyện mình trên TTTB. “Ai” ở đây được T.T.Kh sử dụng như điệp từ nhấn mạnh đầu câu (Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm? Ai đem lễ giam em?) để ám chỉ nguyên nhân và “thủ phạm” gây tù túng, mất tự do cho nhân vật. “Ai” đó là ai thì phải xem xét từng bài mới biết nghĩa chính xác. Trong bài thơ này, rõ ràng, cô gái đang có chồng thấy lạnh lòng với công việc đan áo. Nàng là con chim bị khóa trong lồng. Ai ở đây giữ chùm chìa khóa nếu không phải chồng nàng? Cha mẹ nàng gả chồng cho con gái. Nếu ai đem lễ giáo ở đây không ám chỉ cha mẹ nàng thì ám chỉ chế độ phong kiến – phong tục tập quán cổ lỗ sĩ? Bài thơ này, cô gái là chim trong lồng kia hoàn toàn chẳng có gì liên quan tới hai bài thơ HSHTG và BTTN cả. Thế nhưng, vì nó nằm trong “tổ hợp thơ” nên nó sẽ có những từ “chỉ chứng” bị lợi dụng triệt để như chữ “nghiêm” trong “lồng nghiêm” ứng với ông chồng tên Nghiêm (Phạm Thanh, TNVN hiện đại, quyển Thượng): “Nữ sĩ chính là Trần Thị Khánh, một nữ sinh nhà ở phố Sinh Từ, Hà Nội, có tâm hồn thơ lắm. Nữ sĩ có yêu một thanh niên, hai người đã cùng đi lại, hứa sẽ thành hôn, nhưng nửa chừng vì sự ép buộc của gia đình, nữ sĩ đành phải hát khúc chia ly, về làm vợ một người khác tên Nghiêm, làm công cho một hãng buôn nọ…”.
Trong BTTN, T.T.Kh cũng nhắc “nghiêm” trong “Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm” hay “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi“.
Thông tin của Phạm Thanh về người chồng của Trần Thị Khánh tên Nghiêm đầy suy diễn. Thông tin Nguyễn Vỹ dễ lọt tai hơn: “Trần-thị-Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm-Tâm. Cô thường nói: ‘Thầy mẹ em NGHIÊM lắm, gia-đình em NGHIÊM lắm…’ lần nào Khánh cũng lặp lại chữ NGHIÊM gia-giáo ấy để trả lời kỳ-vọng khát-khao của người yêu… Tuấn-Trình hỏi chua –chát: ‘Giờ phút này chỉ có thơ và mộng, chỉ có anh và em, ánh trăng đẹp của hai đứa mình có nghiêm không nhỉ?’. Có lẽ vì bất- bình câu nói mỉa mai của người yêu, Khánh yên lặng một phút rồi đáp: ‘Ánh trăng đẹp nhưng vẫn nghiêm đấy anh ạ” (VTSTC, sđd tr 258).
Chúng ta nên hiểu chữ “nghiêm” theo nghĩa gia giáo.
Loại bỏ suy diễn người chồng của nhân vật trong thơ T.T.Kh hay người chồng của Khánh tên Nghiêm.
Chúng ta xét bài thơ: ĐACC:
Nghiên cứu về một bài thơ theo thi pháp lục bát, trước hết, chúng ta coi thử bài thơ đó làm đúng thể loại hay chưa? Một bài lục bát dù nội dung có hay đến đâu nhưng “ngã sấp” trong thi pháp lục bát là đành coi như… hỏng!
+ Giá trị thi pháp lục bát của ĐACC:
ĐACC là một bài thơ tạm coi tương đối đúng thi pháp, ngoại trừ những vần thông “bà con xa” như “mùng – đông”; “em – tim – len”; “đan – len”; nghiêm – em – duyên”. Ta có thể khẳng định rằng: Người làm bài thơ này vững thi pháp lục bát. Một người mới tập làm thơ không bao giờ có được một bài lục bát với thi pháp vững như thế. Thể loại khác, chúng ta không dám khẳng định nhưng lục bát là phải luyện. Không luyện thì đừng hòng làm có hồn, không nắm chắc thi pháp, người làm bê hết cả thúng vần thông “chữa cháy” bí vần vào là “lửa bỏng, hỏng xôi”!
+ Giá trị nội dung: Được đánh giá trên giá trị nghệ thuật sử dụng các phép tu từ.
Khác với ba bài thơ cùng thể loại thất ngôn, bài ĐACC gồm 24 câu lục bát. Nó là bài thơ đứng độc lập khi nhân vật phụ nữ trong bài thơ không viết về ”người, người ấy” hay ám thị “ai” nữa mà chỉ thở than thân phận với người chị nào đó hoặc người người nào đó đã cất tiếng “than thở” dùm người phụ nữ qua thán ngữ “Chị ơi!”.
Với ĐACC, tác giả sử dụng ba lần thán ngữ:
Đầu câu: “Chị ơi! Nếu chị đã yêu”
Giữa câu: “Than ơi! Gió đã sang bờ ly tan…”
Gần cuối: “Lòng em khổ lắm chị ơi!”
Đây cũng là cái “huyệt” cho chúng ta tìm ra “thủ phạm” thường dùng thán ngữ trong thơ mình.
Bài thơ như có ba cái khóa, khóa ba cánh cửa cuộc đời: Sáng. Trưa. Chiều. Tiếng than của “thân phận con rùa, trên đình đội hạc, dưới chùa đội bia” cất lên từ song sắt đau thương cần được người thông cảm.
Lẽ thường, người phụ nữ gặp nghịch cảnh nhất là trong nhân duyên thường bộc lộ phản kháng mãnh liệt. Thật có, truyện có như Chiêu Quân, Hạnh Nguyên, Nguyệt Nga, Thúy Kiều… nhảy sông tự tử. Chị Dậu đánh lại tên lý trưởng. Hồ Xuân Hương dùng thơ thanh mà… tục “đả kích” đàn ông… Còn nhân vật nữ của T.T.Kh trong ĐACC chỉ rặt lời than thở :
Lòng em khổ lắm chị ơi!
Trong bao tủi cực với lời mỉa mai.
Nàng khổ vì lấy chồng mà đời nàng không khác gì:
Như con chim nhốt trong lồng,
…
Hạt mưa nó rụng bên song bơ thờ.
Ai nhốt? “Ai đem lễ giáo giam em?” Nhân duyên đã đành “cha mẹ ép” nhưng xưa nay có cái gì có thể cài then khóa cửa nhốt một đời người ta? Kiều khi không có ai ở nhà, quên tuốt luốt câu “trâu tìm cọc” mà “gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường” tìm Kim Trọng. Nguyệt Nga chẳng chịu ở nhà họ Bùi mà trốn mãi trong rừng chờ đợi Lục Vân Tiên. Hấp dẫn hơn là cô gái trong “Xống chụ xôn xao” (Tiễn dặn người yêu) quyết liệt:
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già.
Bài thơ ĐACC mở đầu bằng những câu dàn trải tâm lý. Ta cũng không cần phải mất công đi tìm ”người chị” đó là ai (vì nó cũng có thể nằm trong những người “chị” văn học như của Nguyễn Bính, Quang Dũng hay của những thi nhân khác):
Chị ơi! Nếu chị đã yêu,
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương,
Đã xa hẳn quãng đời hương,
Đã đem lòng gởi gió sương mịt mùng.
Công việc hằng ngày với hoàn cảnh thực tại:
Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
Cô gái nếu chấp nhận lấy người ta thì nên dằn lòng mà làm tròn bổn phận nếu chẳng có cách nào bứt phá ra khỏi vòng giam con chim muốn hót tự do. Hình ảnh người phụ nữ ngồi đan áo len cho con, cho chồng là một hình ảnh đẹp đẽ. Nó mang giá trị truyền thống nhân văn hiền thục, mềm mại của người phụ nữ và có cả giá trị hình tượng văn học. Ví dụ như hình ảnh người phụ nữ đan áo trong “Chuyện tình người đan áo” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (hay Trường Sa?):
Có người con gái, đông về đan áo ấm ra sa trường
Ước mơ không nhiều, mong niềm vui bé đến phương trời xa.
Ai đi trong giá lạnh chẳng nghĩ chuyện người đan áo
Một vầng trăng xẻ bóng chia đôi
Áo đan chưa rồi lỡ mùa đông về giá lạnh người đi.
Mỗi mùa đông đến đem từng cơn gió rét run vai gầy
Những ai âm thầm gom đầy nhung nhớ viết lên thành thơ.
Trong tâm tư áo dệt bằng những giòng lệ yêu dấu
Tặng người yêu lạnh giá đêm thâu
Đã thương nhau rồi mấy ai không ngồi đan mộng từng đông.
Mùa đông ai đan áo gửi đi
Mùa đông ai đan ước lời mặn nồng?
Như chim chiều về có đôi
Để gió mưa về đừng lạnh lùng
Để em trong bao ngày xa cách
Đan mộng đẹp vào chiếc áo mùa đông
Cây lá âm thầm chờ mùa xuân thêm tươi
Lá rơi mấy mùa là mấy mùa đông em chờ!
Nhớ mùa đông em đến ngồi đan áo ấm ra sa trường
Áo tuy không dầy nhưng lòng thêm ấm khi hành quân
Cho em mơ có một chiều nắng đẹp tình đất nước
Người về vui hạnh phúc tương lai
Áo đan xong rồi nhớ cho em gửi muôn vàn niềm thương”.
Trong ĐACC, hình ảnh này chuyển sang giá trị ẩn dụ hiện thực khác: Đan đi, đan lại mãi chưa xong chiếc áo không phải cho những người hành quân ra trận mà là cho… chồng với sự rối rắm trong lòng. Đơn giản như vậy nhưng “đan áo” chỉ là cái cớ nhất thời còn sự “rối rắm” kia mới là một đời không gỡ nổi với lời “than ơi” rớt xuống nặng nề:
Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
Than ôi! Gió đã sang bờ li tan…
Cho dù ai viết thì đây cũng là đoạn có thể cho là hay nhất của bài thơ với hình ảnh “con chim bị nhốt” xuyên qua mũi kim đan áo cho chồng mà… xông ra ngoài… rồi lại bị “lễ giáo” níu áo trở lại:
Quang cảnh lạ, tháng năm dài,
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai, giật mình.
Lời than thở này trong bài thơ sáu đoạn, 24 câu lục bát đã đi ngược lại hình ảnh “can đảm” mà người phụ nữ trong BTTN đã chấp nhận:
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo .
để vui sống “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!”.
Còn nữa, nhân vật trong bài thơ này đã “quên sạch” những lời mình hứa trong BTTN:
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
-“Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ!”.
Hai bài thơ, một người viết mà hai nội dung trái ngược? Một điểm hở sườn để địch điểm trúng huyệt non là chỗ này!
Thật sự ai là người con gái mà TT thương nhớ? Người con gái cam chịu trong BTTN hay kẻ than ngắn, thở dài trong ĐACC?
Trái với ba bài thơ trên, người phụ nữ trong ĐACC không nêu đích danh “chàng nghệ sĩ, vườn Thanh, mùa Thu, vuốt tóc, chồng già, hoa tim…”. Bài thơ này chỉ đề cập tới hình ảnh con chim bị nhốt như phụ nữ bị lễ giáo giam bằng cuộc hôn nhân bất ưng ý để ví mình vì “lễ giáo” mà chịu hy sinh một đời. Không rõ người chồng trong bài thơ thuộc loại “đêm đêm lỡ bị nó… quằm, chỉ bằng… cái lợi chứ nhầm nhò chi” hay “bồng bồng cõng chồng đi chơi”? Một đề tài “ăn khách” thời xưa.
Những cấu trúc điệp từ đầu câu “đã” (đã từng, đã qua, đã đem) có tác dụng nhấn mạnh “vết thương lòng” của người “chị” trong quá khứ, hướng người “chị” này thông cảm cho nhân vật “em” cũng đang bị những “tháng ngày tiêu sơ, đau thương, gió sương mịt mùng) làm cho tơi tả.
Hình ảnh nhân hóa sự vật song song ẩn dụ kiếp người với “Hạt mưa nó rụng”, “Gió sang bờ ly tan”, “Mưa gió xôn xao”, “Tháng ngày mong đợi”, “lễ giáo giam em”, đã làm nội dung lắng dần, đọng lại trong người đọc một khung cảnh hết sức thương tâm: Mùa đông lạnh giá. Tâm tư cô đơn. Trạng thái buồn bã. Cuộc sống thiếu tự do và nhất là mong ước một “ánh hồng” – biểu tượng một mặt trời chiếu sáng qua đời tăm tối dù chỉ là mặt trời của ngày hôm qua!
Những động từ biểu thị sự lê thê, tàn nhẫn: “đan đi, đan lại, kéo dài, khóa chết” nhập với tính từ tính chất, mức độ: “miễn cưỡng, sống hờ, tủi cực” với cụm danh từ tréo cẳng ngỗng, dài ngoằn ngoặt: “duyên trái đời, tháng năm dài” hợp thành bản hợp xướng lê thê của một số phận bên lề yêu đương và bên bờ vực thẳm! Đây có phải là lời tâm sự não nùng như tiếng than của những hoàng hậu, cung nhân thất sủng bị nhốt vào lãnh cung? Phải chăng đấy cũng là một khúc oán hờn mà “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều thuở nào đã tấu:
Vì đâu nên nỗi dở dang
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi mình.
… Nơi lạnh lẽo nơi xem gần gặn
Há son phai lạt phấn ru mà
Trêu ngươi chi bấy trăng già
Trao con chỉ thắm mà ra tơ mành!
Lòng ngán ngẫm buồn tênh mọi nỗi
Khúc sầu tràng bối rối đường tơ
Ngọn đèn phòng động đêm xưa
Đài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn.
… Đêm phong vũ lạnh lùng có một
Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh
Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh
Vách sương hót gió đèn xanh lờ mờ.
Mắt chưa nhắp đồng hồ đã cạn
Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao
Buồn này mới gọi buồn sao ?
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình.
Lẩn quẩn, kinh hoàng “đêm đêm nằm tưởng ngày mai, giật mình!“: Không lối thoát! Thơ ca lại dung dưỡng những lối thoát không đường mà những lời thở than về một kiếp hồng nhan là nguồn sáng tác và nguồn sống cho thi ca muôn đời!
Thanh Tâm Tuyền từng tuyên thệ trong bài thơ “Chim”:
Tôi chối từ giam cầm chim đẹp trong rừng tóc
dù tiếng hót đã chọn mấy hàm răng
Người bộ hành cô đơn chờ đêm để lên đường
về quá khứ
Chim bay vào trận mưa sao…
Trong “Khúc Thụy Du”, con chim bói cá kiếm ăn khắp sông lạch ao tù của Du Tử Lê sao mà thanh nhàn!
Với Trần Huyền Trân (một trời “chim” trong thơ người bạn nối khố của TT mà chúng ta sẽ đề cập sau) tỏ sự mỉa mai “chanh chua chuối chát” vào nữ thần tình yêu bằng hình ảnh con chim trong lồng qua bài “Thưa bà” trong sách NTL:
Kinh thành mây đỏ như son
Gió lồng ep hẹp giam con chim trời.
Văn Giá cung cấp “Cái lồng eo hẹp giam con chim trời” trong bài viết “Thâm Tâm, một thời và mãi mãi” (thotre.com). Không biết bản NTL và MGL – Ý Nhi, ai chép đúng?
Kết luận:
Ba bài thơ HSHTG, BTTN, BTCC là những bản tình ca bên bờ vực thẳm, là tiếng lòng khao khát yêu thương với những nỗi đoạn trường đầy mùa thu u uất. Riêng bài ĐACC là tiếng than thân trách phận, là tiếng thở dài đêm đông “an phận thủ thường” hay nỗi lòng người ngoài cuộc vẫn còn nhiều dấu hỏi có phải là T.T. Kh làm không? Thế nhưng, dù ai làm, ĐACC là bài thơ có giá trị về mặt thi pháp lục bát và hình ảnh “con chim bị nhốt trong lồng” nâng cấp lên thành hình tượng của một thân phận phụ nữ, một kiếp người mất tự do như con hổ nhớ rừng đã “ngậm một mối căm hờn trong cũi sắt” của Thế Lữ. ĐACC có giá trị tố cáo xã hội với những tập tục cổ hủ, lễ giáo phong kiến khắt khe và hoài mong vượt khỏi cảnh đời éo le là cái đích của quyền sống, quyền tự do, khát vọng của loài người nhất là người phụ nữ không thể như “những con chim ẩn mình chờ chết” của Colleen Mc Cullough mà nhân vật bài thơ chưa đủ sức mạnh vươn tới. Đây là một bài thơ đầy ý nghĩa nếu đứng độc lập và được hiểu đúng cách.
Xét về phương diện nhân vật thật là Khánh:
- Khánh có làm nổi bài lục bát này không? Không thể nào!
- Thắc mắc về nơi đăng bài thơ:
Tại sao ba bài thơ, T.T.Kh đã gởi đăng cùng một chỗ: TTTB mà bài giữa này thì gởi đăng một nơi: “Phụ nữ Thời Đàm” và “Ngọ Báo”?
Hoàng Tiến ghi lời lý giải của Lương Trúc: “T.T.KH gửi đến Tiểu thuyết thứ bảy một bài nữa, với tiêu đề là Bài thơ thứ nhất và viết tặng riêng Thâm Tâm bài thơ Đan áo…. Thâm Tâm hồi ấy còn trẻ, với tính hiếu thắng của tuổi trẻ, ông đã gửi báo Phụ nữ đăng bài thơ Đan áo để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Tất nhiên không có sự đồng ý của T.T.KH. Và thế là T.T.Kh. giận, cô viết bài thơ lấy tiêu đề Bài thơ cuối cùng gửi đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy, vừa hờn vừa giận đầy yêu thương, và cũng từ đấy T.T.Kh. ‘tắt lịm’ trên thi đàn”.
TT mang bài thơ T.T.Kh tặng mà gởi báo Phụ Nữ Thời Đàm?
Nguyễn Tố kể chuyện TT kể chi tiết hơn: “Có một hôm cô Khánh (T.T.Kh) làm xong bài Đan áo cho chồng đưa cho người bạn gái thân nhất đời của nàng xem. Cô bạn đó tên là Tuyết. Bài thơ ấy cố nhiên là chứa một niềm cay đắng của tâm hồn nàng! Có riêng Tuyết là hiểu cuộc đời đau đớn của chúng tôi, nên Tuyết được ‘hân hạnh’ đón đọc nỗi lòng thầm kín của chúng tôi. Đọc xong bài thơ Đan áo cho chồng, Tuyết trao cho tôi xem. Tôi thấy bài thơ đó hay, liền đăng vào Phụ Nữ Thời Đàm (hồi ấy xuất bản tại Hà Nội)…. (VNTNTCTT, sđd tr 431).
Nghịch lý: Một bài thơ ĐACC, T.T.Kh đã gởi cho ít nhất 3 người: Người chị, TT, cô Tuyết nào đó? Không lẽ, viết cho người chị nào đó, mà lại không gởi cho chị? Hai bài thơ đã xét ở trên: Chẳng có cô Khánh nào làm thơ gởi đăng báo TTTB và gởi tặng TT bài thơ “Đan áo” như Hoàng Tiến kể hoặc gởi cho cô bạn Tuyết như Nguyễn Tố kể cả. Việc TT mang bài “Đan áo” đi đăng chỗ khác mà không đăng chỗ TTTB nơi mình làm việc là chuyện vô lý. Đăng để chứng tỏ T.T.Kh là người yêu của mình thì càng vô duyên. Người lý giải hồ đồ. Nếu có, TT đăng nó trên TTTB thì không chứng minh được T.T.Kh là người yêu à? Hoặc theo Nguyễn Tố, bài thơ ĐACC có gì mà TT phải nói là “cô Tuyết được hân hạnh đọc nỗi niềm cay đắng của chúng tôi”? Hai bài thơ trước HSHTG và BTTN mới là thổ lộ chuyện tình riêng tư mà thiên hạ đọc hết cả rồi? Cô Tuyết hân hạnh biết chút sơ múi gì nữa trong ĐACC? Trong bài thơ ĐACC có cái gì để chứng minh T.T.Kh là người yêu của TT?
Từ lỗ hổng này, ta có thể suy ra là vì có ít nhất là hai tác giả làm việc trong hai tờ báo này đang… hoạt động bí mật. Cả hai cùng ký T.T.Kh nên chẳng có ai dám “vạch áo cho người xem lưng“. Ngồi cùng mâm. Đâm cùng huyệt. Biết cùng lúc. Kết cục… lúc nhúc là… ăn giòi! Nên thôi!… “im lặng là vàng”! Sự “tắt lịm” của T.T.Kh trên thi đàn cùng một lúc là có “tín hiệu” tập thể thống nhất “ngừng chơi” rồi! Nếu không? Đừng hòng thiên hạ im cái miệng!
Chúng ta thấy rõ ràng hiện tượng này, Thanh Châu kêu gọi đừng tách bạch thơ T.T.Kh ra làm gì! NTK năn nỉ hãy để yên huyền thoại mãi mãi là huyền thoại. Những ai ái mộ huyền thoại này cũng muốn như thế. Vậy mà có ai chịu im đâu! Bài viết vẫn tung lên báo… báo hại thiên hạ u u minh minh. Sách của NTL, Nguyễn Vỹ, Thế Phong, Phạm Thanh, Hoài Việt, Thế Nhật, NTK… “hô phong hoán vũ” mà thiên hạ vẫn đi trên sa mạc khát nước trước T.T.Kh là ai, sau ngập lụt bởi râu ông T.T.Kh kia cắm cằm bà T.T.Kh nọ!
Nếu “tổ hợp thơ T.T.Kh” không phát tín hiệu “Stop“, liệu T.T.Kh thật, ra lệnh “tôi không viết nữa, các anh câm cái mồm, im” mà mấy “đực rựa” ăn theo chịu nghe lệnh “dạ, bẩm bà, con im” sao?
Lý giải của Lương Trúc qua lời ghi của Hoàng Tiến hay lời kể của Nguyễn Tố và những thông tin tương tự nên bác bỏ tại đây!
- Đại từ “Ai” trong bài ĐACC ám chỉ ai?
Theo Nguyễn Vỹ, Khánh là cô gái có hiếu với cha mẹ và biết lễ “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” nên cô mới chia tay với TT. Nay cô mở lời than thở và cay đắng, oán trách qua đại từ “Ai”?:
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm?
Ai đem lễ giáo giam em?
Không lẽ cô oán trách cha mẹ mình? Không lẽ cô trách móc người chồng thương gia giàu có của cô?
Hồ Thông ghi lời TT: “Ông chồng của Khánh là một trung niên, khoảng 38, 39 gì đó tuổi, đâu có già, có luống tuổi… tạm gọi có của ăn, của để” (“Trong lửa đạn thù” sđd tr 194).
Nguyễn Vỹ kể THT từng gặp Khánh có… bầu cùng chồng âu yếm hạnh phúc ở Bờ Hồ Tây ăn kem.
Hai gia đình Khánh và chồng Khánh là tiểu tư sản “môn đăng hộ đối“. Bản thân chồng Khánh lại là thương gia chứ đâu như vợ chồng anh Vệ quốc quân Trần Dần tiểu tư sản nhưng… mất sản nghèo khổ ở phố Sinh Từ? Khánh làm sao có thể ngày này qua ngày kia ôm cuộn len mà đan cho chồng chiếc áo mùa đông? Bị giam trong “ngục tối” vậy, thời gian đâu Khánh ngồi làm thơ với thẩn để tưởng nhớ tình xưa? Thời gian đâu mà ngồi “buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết”. Người nhàn hạ mới đọc tiểu thuyết chứ? Ông chồng giàu thế, cưng vợ trẻ như thế làm gì để cho vợ ngày nào cũng đan, cũng móc, không có thời gian cho… chuyện khác sao? Giàu thế, tây thế, “tân” thế thì sao không mua quách mấy cái áo len mà mặc? Vậy, Khánh nói “ngoa dụ” nỗi khổ khi lấy chồng thương gia, gấp đôi số tuổi mình để cho ai nghe và ai đọc với nghe và đọc để làm gì? Những tờ báo cô gởi đăng bài toàn là những tờ bán chạy nhất Hà Nội dạo ấy vì số lượng độc giả phong phú, tin tức truyền nhanh. Bởi vậy mà truyện “Hoa Ti-Gôn” của Thanh Châu mới tới tay cô. Bởi vậy mà HSHTG mới ra đời và ĐACC đành phải được… sinh sau khi BTTN khai hết mọi thứ! Cô Khánh làm hết 4 bài thì còn trách móc ai bây giờ?
Không lý giải được thì chúng ta cứ coi như Khánh đã cố tình cho người ta biết về mối tình của mình rồi lại mượn thơ mình làm trách người cũ là TT? Sự thật này làm gì có nên khả năng Khánh làm ĐACC để than thở cho người đời thương hại hay ba bài thơ kia vừa kể mình vừa chửi người càng ngày càng mong manh, không chứng cứ và chẳng bờ đê nào ngăn nổi con sóng dữ cho “sự thật” vô lý trên. Vậy ai đã làm bài thơ này?
Tác động của những bài thơ ký T.T.Kh nói chung?
Những bài thơ trên nhất là bài HSHTG làm nao nao lòng người không những vì chúng mang lời thơ thấm buồn man mác mà còn cho người đọc tâm đắc một chuyện tình có thật. Đó là chuyện tình giữa tác giả TBH nổi tiếng cùng cô nữ sinh tên Kh. Tức là chuyện tình của Trần (Từ) Thị Khánh (Kh chứ không nhất thiết phải T.T.Kh) và Thâm Tâm – Nguyễn Tuấn Trình mà người ta cho qua những mâu thuẫn trong hồi ức mối tình dang dở bằng thơ.
Xuyên suốt mấy chục năm, người ta cố tìm ra sự thật “T.T. Kh là ai?” và tất cả cũng hoài công vô ích để lại một “huyền thoại” cho đời. Nhưng có một điều chắc chắn là cuộc đời luôn có sự đối lập: Nếu mùa xuân có nắng ấm thì mùa đông có tuyết rơi (nơi nào tuyết không rơi thì mưa buồn cũng đến đó mà!). Giữa cái “không” sẽ tìm ra cái “có” và giữa bế tắc đời thường, ta luôn lóe ra một tia hy vọng. Hẳn nhiên, kết quả cho ta một sự hấp dẫn cũng là… huyền thoại nốt: “Người, Người ấy” núp bóng một người ra đi trong TBH và “người ấy” trong hai bài thơ HSHTG, BTTN, BTCC vừa là một người vừa là hai người mang tính cách thẩm mỹ vừa mang giá trị hiện thực. Bởi vì, chúng được sinh ra từ một người… cha đó là TT và chất liệu nuôi dưỡng là từ người… mẹ Kh (có đồng ý hay không, độc giả thử tư duy).
----
III. Những ứng cử viên bút hiệu T.T.Kh sáng giá?
1. TT khẳng định T.T.Kh chính là bút hiệu của mình:
Bùi Viết Tân kể trong “Thâm Tâm là T.T.Kh?” (Giải mã nghi án văn học T.T.Kh, Trần Nhật Thu, tr 126-130): Cuối năm 1949, trong một chuyến công tác dài ngày từ Liên khu III lên Việt Bắc, tôi có dịp đồng hành với thi sĩ Thâm Tâm… Nhân vui câu chuyện, tôi có hỏi anh Thâm Tâm về những bài thơ ký tên T.T.Kh.
- Theo ý ông thì những bài thơ này của ai?
- Người ta nói của người tình Thâm Tâm. Phải vậy không anh?
- Ông có đọc bài thơ ký tên Thâm Tâm đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy số 307, ra ngày 4 tháng 5 năm 1940 chứ?
- Đã có đọc, có phải bài Các anh không nhỉ?
- Đúng thế, tất cả đều liên quan tới một chuyện tình, nhưng thật ra thì những bài thơ ký tên T.T.Kh, là do mình sáng tác cả thôi…
- Câu chuyện này có liên quan gì tới đất Thanh Hóa không anh?
– Địa danh vườn Thanh trong thơ là nói tới Thanh Miện ở Hải Dương…
Nói dứt lời anh Thâm Tâm ngâm khẽ cho tôi nghe bài Các anh… Ngâm dứt bài thơ, Thâm Tâm quay ra hỏi tôi:
- Ông thấy bài này thế nào?
- Khác hẳn với hơi thơ Thâm Tâm trong ‘Tống biệt hành’ và những bài thơ khác anh đã đăng báo.
- Người làm thơ có quyền được làm nhiều loại thơ khác nhau chứ…
- Những bài thơ anh làm ký T.T.Kh có liên quan gì tới nhân vật tên Khánh không?
- Xin ông cho mình miễn trả lời câu hỏi này. Mình đã có gia đình và nhân vật trong thơ cũng vậy. Xin lỗi nhé!
… Tôi cười và đáp lại rằng con người ngoài khối óc còn có trái tim và anh có làm những bài thơ ký tên T.T.Kh cũng là chuyện bình thường của một nhà thơ, có gì xấu đâu. Tôi nhớ rõ mắt anh Thâm Tâm như sáng hơn sau khi nghe tôi nói”.
Lời kể này có những điểm cần xét như sau:
- Bùi Viết Tân cùng chuyến công tác với TT cuối năm 1949: Không ai xác minh nhưng có một:
Hồ Thông (H.Th) cũng kể mình cùng đơn vị TT năm 1947 trên đường đi biên giới: “Vào những ngày đầu của cuộc chiến chống thực dân Pháp năm 1947, tình cờ tôi được điều về đơn vị có nhà thơ Thâm Tâm hiện diện… Do đấy tôi đã ở chung với Thâm Tâm trong một thời gian và gạn hỏi chính Thâm Tâm về huyền thoại nàng T.T.Kh., với bài thơ ‘Hai sắc hoa Ty-gôn’ kia... Người tôi yêu tên là Kh. Khi viết, tôi định ký rõ dưới bài là Thâm Tâm, giản dị vậy thôi, như những bài thơ tôi vẫn thường ký khi đăng báo. Tuy nhiên, cảm về chuyện Hoa Ty-Gôn, một tối, tôi lại làm bài ‘Hai sắc hoa Ty–gôn’ cực tả mối tình của ai kia, và … liều chọn một bí danh ký dưới bài thơ bằng ba chữ viết tắt T.T.Kh. Ba chữ viết tắt ấy chỉ có nàng và tôi hiểu” (VNKNQH, sđd tr 191).
Vậy, năm 1941, TT kể chuyện tình mình với cô Khánh cho ông Anh Đào nghe rồi từ năm 1947 tới cuối 1949, TT cứ đi mãi trong rừng gặp hết ông Thông rồi đến ông Tân để chỉ kể lể chuyện mình? TT “bệnh tâm thần” thích kể chuyện cổ tích thời hiện đại chăng?
- Cảm hứng TBH mà người ly khách trong thơ chính là Phạm Quang Hòa như Bùi Viết Tân kể thì đụng đầu NTK. NTK trong bài “Tống biệt hành” (Về những kỷ niệm quê hương, sđd tr 63-68) là không phải ông Hòa, ông Hóa nào hết mà là một người khác. Bài thơ đó trước không phải mang tên TBH như bây giờ. Chúng ta xét nó trong phần cuối phân tích thi phẩm TBH.
- TT làm sao mà đi tự nhận mình là T.T.Kh với ông Tân một cách sống sượng,”khoe khoang” không đúng chỗ, đúng người, đúng thời điểm như thế được. Mà lại “khoe” rất nhiều người nữa. Nếu TT tự nhận mình là T.T.Kh thì chỉ việc viết một bài hồi ức nho nhỏ (như Thanh Châu viết “Những cánh hoa tim” giải thích vì sao mình viết truyện ngắn “Hoa Ti-Gôn“) giải thích vì sao mình lấy bút hiệu T.T.Kh là được rồi.
- TT “lắm mồm” còn “lắm mép”… ngâm thơ bài “Các anh” cho ông Tân nghe nữa chứ? Điều này đụng hàng nghịch với Nguyễn Hữu Đảng trong “Thâm Tâm” với “Nỗi đau ngày trước” (Giai thoại văn học, Nxb VHDT – 2000), TT “tuyệt nhiên không nhắc đến thơ mình ngày trước“?!
- TT giải thích cho ông Tân về “vườn Thanh” là Thanh Miện chứ không phải Thanh Hóa. Lại chạm trán với Nguyễn Vỹ trong “Thâm Tâm và sự thật về T.T.Kh” (Văn thi sĩ tiền chiến, NXB Khai Trí-SàiGòn – 1969): “Thanh-giám là một thắng cảnh Hà-Nội, đã liệt vào cổ-tích Việt-Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ dưới đời nhà Lê, hình chữ nhật, chung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước. Đền thờ ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có dựng nhiều tấm bia ghi tên các Tiến-sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh-giám, có cổng Tam-quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán ‘hạ mã’ và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ-thụ và các cây kiểng, nơi đây rất yên-tĩnh, và mát-mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái hẹn-hò, tâm-sự…”.
Thông tin này cũng “ngược toa xe lửa” với Thế Nhật khi Thế Nhật khẳng định “vườn Thanh” chính là Thanh Hóa của Thanh Châu và Trần Thị Vân Chung trong “T.T.KH nàng là ai?” hoặc là “vườn Thanh” mà Nguyễn Bính “ngờ ngợ” về “cô nàng năm ấy đang ngồi quay tơ” trong “Cô gái vườn Thanh”.
Còn NTK trong “T.T.Kh nàng là ai?” (Về những kỷ niệm quê hương, Nxb Phượng Hoàng – 1996) ngập ngừng: “Chúng tôi chỉ đưa những dữ kiện để bạn đọc tiện phán đoán, chứ không khẳng định ‘Vườn Thanh’ là khu Thanh Giám – Văn miếu thuộc Phường Bích Câu xưa…”.
Nhưng nhân chứng Nguyễn Tố (tự nhận là một trong năm thanh niên gồm Trần Huyền Trân, Vũ Trọng Can, Thâm Tâm, Nguyễn Tố và Bùi Huy Phồn) trong thiên hồi ký trên báo Sống, chắc nụi: “Cho nên, những lúc nhàn rỗi hay cần suy nghĩ, chúng tôi thường tản bộ vào vườn Thanh Giám. Nơi đây, quanh năm um tùm có bóng mát của hàng ngàn cây cổ thụ… Trong vườn Thanh Giám có chừng hai trăm tấm bia lớn, mỗi tấm đều đặt ngay ngắn trên lưng một con rùa đất… Giữa vườn Thanh Giám là nhà Thái Miếu lập ra từ đời nhà Lý… Bắt đầu Pháp thuộc thì vườn Thanh Giám bị đẩy lui vào cổ tích” (sđd tr 430).
- TT nhận mình là T.T.Kh, TT thật “anh hùng” nhưng, TT lại… né tránh “phi quân tử” chuyện khẳng định nhân vật tên Khánh với câu trả lời “lạy ông…”: “Xin ông cho mình miễn trả lời câu hỏi này. Mình đã có gia đình và nhân vật trong thơ cũng vậy. Xin lỗi nhé!”. Đạo đức như như cải lương! “Nhân vật trong thơ cũng vậy” nghĩa là TT tự khẳng định nhân vật trong thơ là cô Khánh rồi còn gì nữa!
- Điều cuối cùng, mắt TT “như sáng hơn” khi nghe Bùi Viết Tân tâng bốc nhận T.T.Kh “có gì xấu đâu“? Trời! Bao nhiêu hào khí trong “Tráng ca”, Vọng nhân hành”, “Tống biệt hành” với khí phách “ném chén cười cho đã mắt ta” của TT bị ba cái từ trần văn truồng đó chấp cánh bay mà bay xuống… bùn!
Các tác giả trên mặc sức húc đầu nhau, đụng hàng cứng tha hồ… chạm trán, đả kích nhau cho về chuyện này cho vui!
- Nguyên nhân nào TT phải lấy bút hiệu T.T.Kh?
Nguyễn Vỹ trong “Thâm Tâm và sự thật về T.T.Kh” (“Phổ Thông tạp chí”, số 63, ngày 15.8.1961, sđd) khẳng định: “Chàng yêu nhớ đơn phương với mặc cảm của một nghệ-sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo đùa bỡn, nhất là Vũ-trọng-Can. Vì một chút tự ái văn nghệ, đối với mấy người kia, Tuấn-Trình đã phải thức một đêm, theo lời anh, làm một bài thơ đề là ‘HAI SẮC HOA TI GÔN’ ký T.T.Kh. với thâm ý để Trần-huyền- Trân và Vũ-trọng-Can tin là của Khánh làm, để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn-Trình dán kín bao thư rồi nhờ cô em họ, con gái của người cô ở phố Cửa-Nam, mang thư đến tòa báo. Cũng chính cô em họ đó đã chép dùm bài thơ với nét chữ con gái dịu dàng của cô, để khỏi bị nghi ngờ”.
Còn BTCC?
Nguyễn Vỹ ghi lại: “Thâm-Tâm lấy gần hết chữ và nghĩa trong bức thư đoạn tuyệt tàn nhẫn của Trần-thị-Khánh làm bài thơ CUỐI CÙNG đó mà vẫn ký T.T.Kh., một lần cuối cùng”.
Tư liệu này cũng chưa thể xác thực vì nó thiếu hẳn nguồn dù nguồn đó, Nguyễn Vỹ cho rằng chính TT đã kể. Tuy nhiên, Nguyễn Vỹ cũng là nhân chứng thời gian cho một cuộc tình gây tranh cãi trong văn học. Vấn đề chính ở chỗ: Những nội dung của bốn bài thơ trên là vật chứng trước công đường văn học.
Nguyễn Tố (sđd) ngược lại Nguyễn Vỹ: “T.T tức là Thâm Tâm hay Tuấn Trình cũng thế… và Kh là Khánh; T.T.Kh muốn đặt tên T.T để nhớ con người cũ: Thâm Tâm”.
Bài nào ký Thâm Tâm là thật?
Nguyễn Vỹ lại chắc nụi: “Rồi, để đáp lại, chàng làm một bài ký tên Thâm Tâm và cũng là bài cuối cùng, mỉa mai, chua chát”.
Có lẽ chính vì thế mà tất cả im hơi lặng tiếng, lặng lẽ rút lui. TT đã lên tiếng “đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn” trong “Dang dở” thì kẻ giả danh TT lẽ nào dám làm thêm một bài nữa ký TT? Hoặc ngược lại, TT thật kia thấy kẻ giả danh mình đã làm “bài thơ chót kính dâng tặng bạn” thì mình chui ra ngoài bằng bút hiệu T.T.Kh hay Thâm Tâm cũng đều “lạy ông, tôi ở bụi này”!
Ta sẽ đối chiếu các bài thơ TT với con người TT để xem mức độ giả thật tới đâu của những bút hiệu T.T.Kh và TT như một dạng“đồng thanh tương ứng”, “đồng khí tương cầu”, “đồng bệnh tương lân”, thiếu nghĩa “đồng cam cộng khổ”!
Đối chiếu:
Lời TT kể cho Nguyễn Vỹ nghe năm 1937 được Nguyễn Vỹ đăng báo năm 1961 này giống y chang nội dung TT đã kể cho Hồ Thông nghe trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp năm 1947, hai người cùng đơn vị mà trong VNKNQH của NTK ghi lại năm 1996: “Người viết tập sách này thâu nhập được những sự việc kể trên từ ngày đi tù cải tạo về (1986) qua một người bạn học rất xưa kể cho nghe. Anh ta hiện làm việc ở Hà-Nội, đã từng gia nhập Vệ Quốc Đoàn trong năm 1946, theo đoàn quân Tây Tiến cùng với Quang Dũng, Hồ Văn Thông v.v… trong những năm 1948, 1949″ (sđd tr 198-199).
TT còn khẳng định những bài ký Thâm Tâm trong thời gian 1937 – 1939 có liên quan tới T.T.Kh trong lúc kể với Hồ Thông đầu năm 1947 “đều do các bạn tôi tự biên soạn ra cả…”
Với hiện tượng về HSHTG, TT kể: ”Ai cũng tưởng, cũng nghĩ chính mình là… người tình của nàng thơ T.T.Kh. Riêng chỉ có tôi là cười thầm. Nàng, chắc cũng vậy”.
TT lý giải: “Thấy T.T.K.h là đề tài bán được báo, nhiều nhà thơ cũng nhảy vào vòng chiến. Có người mạo cả tôi để ký tên dưới bài thơ. J. Leiba và Nguyễn Bính thì đàng hoàng thấy rõ. Các anh ấy chỉ cảm xúc xót thương thôi chứ không hề có ác ý hoặc bôi bác”.
Đúng hay sai?
Đề tài T.T.Kh quả là đề tài bán được là rất đúng với thị trường báo chí trong mọi thời đại, mọi thời gian. Vũ Đình Long của TTTB đã qua mặt “Ngày nay” của Nhất Linh – Khái Hưng về “thầu T.T.Kh” này như NTK ghi nhận: “Sự cạnh tranh muốn nổi bật giữa các tờ báo ở Hà Nội… đơn cử hai tờ: Hà-Nội Báo và Tiểu Thuyết Thứ Bảy với hy vọng với một chủ đích: tìm cho bằng được T.T.KH. trong số các nhà văn, nhà thơ cộng tác để trình chánh trước công luận sau 57 năm tuyệt tích song hồ. Hà-Nội Báo do Lê Tràng Kiều chủ trương biên tập…” (sđd tr 35).
Sự cạnh tranh báo chí, nhà xuất bản về đề tài ăn khách vẫn nối tiếp “truyền thống cha ông” cho đến bây giờ! Cho nên, mới có câu “nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm“. Nói láo hay nói thêm phía nào thì cũng có ngày… ngồi gỡ lịch tây, đếm lá mùa thu đầy ngoài… song sắt! Văn nghiệp cũng như Khẩu nghiệp. “Sinh nghề, tử nghiệp“!
Cuộc chạy đua sách dịch đang là vấn đề nóng hổi của các nhà xuất bản “chuộng ngoại bội thu”. Trường hợp cuốn “The Da Vnci Code” (mật mã Da Vin Ci) của nhà văn Mỹ Dan Brown năm 2003 và phần 2 của nó “Angels and Demons” (Thiên thần và Ác quỷ); hiện tượng 7 cuốn sách về cậu bé phù thủy “Harry Potter” của nữ văn sĩ người Anh J. K. Rowling mà các nhà xuất bản trên thế giới “nhào vô” kiếm ăn là một điển hình. Cuộc đua sách nhật ký ở Việt Nam như trường hợp “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” chẳng hạn. Hay còn có nạn chạy đua… hồi ký, tự truyện miễn là phơi đời tư, khơi dậy tò mò độc giả càng nhiều thì sách càng hốt bạc! Bởi vậy mà có cuốn “Thâm Tâm và T.T.KH” (Hoài Việt, Nxb HNV – 1991),“T.T.Kh. nàng là ai?” (Thế Nhật, Nxb VH-TT – 1994 – 2001), “Giải mã nghi án văn học T.T.Kh” (Trần Đình Thu, Nxb VH-SG – 2007)… đã đưa độc giả đi vào… rừng mê lộ! Ta xét sau.
Bia miệng?
Tội nghiệp cho những người bạn ”kết nghĩa đào viên” của TT (Thâm Tâm – Nguyễn Bính – Trần Huyền Trân – Trúc Khê – Đinh Hùng – Vũ Hoàng Chương) chứ ít nghe nói tới Bùi Huy Phồn và Nguyễn Tố như NTL đã ghi trong VNTNTCTT) nhất là NB cả đời mang tiếng mê ”cô hàng xóm” không đủ mới tranh thủ luôn Trần Thị Khánh, Từ Thị Khánh của TT. Té ra, NB chỉ ”cảm xúc, xót thương thôi” chớ đâu yêu iếc gì Kh qua ”Dòng dư lệ” mà cũng không có ý ”bôi bác”. NB nếu không có ý đó thì người khác có. Vậy những người đó là ai? Cuộc tình TT và Kh tan vỡ từ năm 1937. TT đã đính chính: ”Suốt từ 1937 đến 1939, chỉ có ba bài thơ chính thức của T.T.Kh. do chính tôi sáng tác mà thôi:
1. Hai sắc hoa Ty-Gôn.
2. Bài thơ thứ nhất.
3. Bài thơ cuối cùng.
Ngoài ra những bài như ”Đan áo cho chồng ký’ T.T.Kh, bài ”Các anh hãy uống cho say” ký Thâm Tâm… đều do các bạn tôi tự soạn ra cả. Nếu kể hết thì nhiều lắm…” (Sđd tr 192).
TT liệt kê những người bạn: “Anh biết đấy… căn gác nhỏ ở ngõ Sầm Công – Quảng Lạc vốn là nơi quy tụ giới văn nghệ sĩ ở Thủ Đô phục vụ Nàng Tiên Nâu. Thôi thì đủ mọi đề tài anh em đem ra thi đua thảo luận. Nguyễn Bính, Vũ Trọng Can, Trần Huyền Trân, Tân Hiến, Lê Văn Trương, Đặng Đình Hồng… rồi sau có thêm Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng… và những bạn khác nữa như Vũ Bằng, Vũ Trọng Phụng v.v…”. (sđd tr 206).
Thông tin thất thiệt hay thiệt không thất?
Bùng nổ thông tin về T.T.Kh những năm 1937 – 1939 đến bây giờ cũng như đầu năm 2005 là sự ”bùng nổ” những thông tin văn học khá ly kỳ: Đó là hình tượng ”Cậu bé đuốc sống Lê Văn Tám” mà Gs.Trần Huy Liệu đã mang vào lịch sử. Theo Gs. Phan Huy Lê, trong một cuộc họp báo của hãng phim truyền hình Việt Nam tại Hà Nội cuối tháng 2/2005, cậu bé đuốc sống ấy là… không có thật. Chỉ có cậu bé đóng vai Lê Văn Tám năm 1980 của đạo diễn Lê Mộng Hoàng là cậu học sinh trường Phan Đăng Lưu – Bình Thạnh đó đang định cư ở Caliofornia là có thật mà thôi. Cũng tại thủ đô Hà Nội, cô học sinh Nguyễn Phi Thanh trong kỳ thi Học sinh giỏi văn ngày 18/03/05 bất bình với một đề thi nên đã dám viết vào bài làm là không thích tác phẩm ”Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ Nguyễn Đình Chiểu?! Những nhật ký của những liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, Hoàng Thượng Lân… được nhà xuất bản… tung ra thị trường tạo sự “bùng nổ nhật ký liệt sĩ”. Còn bây giờ, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học có nên mở lại những trang viết về sự “bùng nổ huyền thoại” TT và T.T. Kh không?
Những bạn của TT: NB, THT, Tân Hiến, Lê Văn Trương, Đặng Đình Hồng, Vũ Hoàng Chương, Vũ Bằng, Đinh Hùng, Trúc Khê, Vũ Trọng Phụng… ai đã góp phần diễn màn ”trộm lân tráo phụng”, “ốc mượn hồn” này dưới những bài thơ ký tên Thâm Tâm? T.T.Kh? Những bài thơ đó theo TT: ”Trở lại với T.T. Kh, những bài thơ mà các bạn tôi làm, duyệt xét một lượt, tôi đã phải lắc đầu. Nó có nhiều mâu thuẫn… Không đúng. Không đồng nhất mạch lạc như ba bài thơ chính”.
Ta thấy TT không nói sai. Bốn bài thơ trên, “mâu thuẫn” trong nội dung,“không đồng nhất” trong quan điểm và “chẳng đúng” ý như ba bài thơ chính HSHTG, BBTN và BTCC. Ngay cả trong ba bài cùng ý tưởng thì cũng đã có mâu thuẫn ngây ngô đến không thể không tin có hai ba tác giả lấy bút danh T.T.Kh chỉ mục đích “bán báo chạy” do sự “bật đèn xanh” của chủ báo Vũ Đình Long mà NTK có “đá” qua trong sách của mình.
Ngày đó, các cộng tác viên ít được ăn lương khoán mà chỉ được trả bằng đồng lương sản phẩm kiểu “tiền trao, cháo múc”. Điển hình như khi Thế Lữ viết truyện “Tiếng hú hồn của Mệ Ké” gởi bán rẻ bèo cho “Tân Dân” của Vũ Đình Long hay trường hợp Vũ Trọng Can với truyện “Màu Hoàng Yến” gởi tới “Ngày Nay” (của Nhất Linh – Khái Hưng) nhận được nhuận bút thì đã… run bắn vì xúc động (“Huyền thoại về nàng thơ T.T.KH”. sđd tr 32-33). Từ đó, sinh ra hiện tượng con đẻ bị bỏ rơi thì ai là người nhận nhuận bút đó? Tất nhiên, T.T.Kh, hay cô Khánh hay bút hiệu giả không chường mặt ra nhận rồi. Thế thì tiền nhuận bút chạy vào túi ai? Còn TT? TT có nhận nhuận bút từ những bài ký Thâm Tâm dù… yếu ớt, bệnh hoạn nhưng lại “đắt như tôm tươi” không phải vì nghệ thuật mà vì độc giả tò mò?
Tình trạng một tác phẩm được độc giả “bu” đông đen chưa hẳn là vì tác phẩm đó hay, hấp dẫn mà phần lớn độc giả thích vào xem người ta “chửi nhau” cái gì? Dân Việt Nam chúng ta, hễ đâu có chửi lộn,… uýnh lộn, hoặc ai đó bị tung xe thì nhào vô… coi cho biết rồi về… kể cho hàng xóm nghe cho… vui!
Chất thật và xảo ngôn trong thơ TT và T.T.Kh?:
Có lẽ vậy mà những bài thơ thật của TT hay T.T.Kh hơi thơ đắng lòng đi một nơi trong khi có những bài ký thay, lời thơ mai mỉa đi một nẻo. Với Kh, TT đã dành cho cô bé một chữ ”yêu” thêm hai từ ”say mê” dù bỗng nhiên, nàng biến mất “đúng khi mối tình nở hoa hương ngào ngạt… Tôi hoàn toàn thất vọng, kiếm tìm nàng giữa Hà Nội băm sáu phố phường… Nàng lẩn tránh tôi vì nghe lời bà mẹ… Tôi đã đến trường xưa tôi theo học mong được gặp lại nàng nhưng chỉ gặp ông thầy dạy học cũ: Thầy Vũ văn Nhượng…” (sđd 195).
Chao ôi! Tưởng rằng trên đời này chỉ có những người con gái yêu mới lụy, mới khổ, nào ngờ ”bèo dạt mây trôi” cũng có khối đàn ông ôm thuyền vỡ mộng! Một đêm tuyệt vọng bằng một đời đắng cay. Chuyện tình ”Trương Chi – Mỵ Nương” đáng thương cho người thổi sáo! “Mỵ Châu – Trọng Thuỷ” oan nghiệt thay mối nhân duyên bị cắt bởi chữ ”lừa” vì tình yêu đã bị chiến tranh hóa. ”Chuyện tình nàng trinh nữ tên Thi” đã buồn; chuyện ”Đồi thông hai mộ” cũng khá gì hơn! ”Lan và Điệp” kẻ cắt đứt dây chuông, người chôn cành lan, xác bướm! ”Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài” ngập máu hồng tiễn bước vu quy! “Ana Karénine – Vronsky” kết cục cũng có gì hơn! Huyền thoại T.T. Kh cũng ra đi trong nước mắt. Mưa buồn lặng. Nắng khóc thầm. Bốn mùa qua trong thương nhớ!
Sau một giấc dài, người trong cuộc sực tỉnh: ”Thú thật, chính cá nhân tôi rất xấu hổ. Vô tình tôi đã tạo ra ‘sì -căng-đan’ ấy. Trong tình yêu, người ta thường trẻ con thế đấy. Sau khi đóng trọn vở tuồng ‘một mình mình biết, một mình mình hay” tôi ngỡ ngàng khi ’soi gương ngắm lại mình’, tôi nhận ra chính tôi đã lừa dối mình, phỉnh gạt độc giả quần chúng. Tôi rất hối hận, nhưng sự thể đã rồi. Không thể cứu gỡ được nữa. Đành để trôi xuôi. Với thời gian, nó đã trở thành huyền thoại”. (sđd tr 194).
Trong cuộc đời có những nấm mồ vô chủ thì trong văn học sao lại không có tác phẩm không tác giả? Chẳng qua, vì người đời ”thóc mách”, người đời ”bôi bác” nó. Chính TT cũng công nhận: ”Méo mó nghề nghiệp vẫn là sở trường của một thiểu số người”. Người ta dựng lên ”Nàng thơ T.T. Kh” chứ ai thấy mặt mũi T.T.Kh ra sao mà biết là… con gái! Tuy nhiên, TT hiền khô, chỉ biết ”lắc đầu” trước những bài viết bóp méo sự thật. TT đã ”đồng tình” im lặng suốt chục năm qua cho đến khi có người khuấy động mới dè dặt: ”Thông ơi, anh hãy hứa với tôi một điều… chỉ một điều thôi, là anh không nên hở ra cho bất cứ ai hay biết, ngoại trừ sau khi tôi không còn ở cõi đời này… chỉ khi nào thấy cần phải lên tiếng, anh hãy nói hãy viết ra. Còn không thì chỉ nên im lặng dùm tôi, như các bạn khác bấy lâu vẫn hằng im lặng vậy” (sđd tr 194-195). Có lẽ ”im lặng là vàng” nên khối người đã chọn phương án này, trung thành với nó đến độ không cần thiết và nhiều khi ”tàn nhẫn” nữa.
Lời kết thúc tâm sự của TT thật hay không, chúng ta cũng nên khởi đầu quay lại các sáng tác của TT bởi chúng bắt đầu bằng nỗi đau khổ vì tình yêu. Sự thành công của các tác giả phần lớn cũng chính là đề tài tình yêu. ”Không có tình yêu, thế giới này vô hồn”. TT thú nhận: ”Yêu một cô bé, đau khổ vì chuyện tình là chuyện không nên. Do đấy… cái lãng mạn, cái tưởng tượng của người nghệ sĩ đều dồn vào thơ, văn. Và tôi đã, trẻ con như thế, đã làm nổi một vở kịch… Khiến trở thành huyền thoại lúc nào với ba bài thơ đã kể. Thời gian 1937, 1939, 1940 tôi rất đau khổ: một mặc cảm tội lỗi ngự trị, và tôi đã cố bình tĩnh đóng trọn vai tuồng mình tự biên, tự diễn, chẳng một ai hay. Kể cả Thanh Châu, nhà văn, đã khơi mào viết ra truyện ngắn ‘Hoa Ty-Gôn’ kia. Và cả bọn Vũ Trọng Can, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân… nữa. Tất cả đều không một ai biết mặt T.T.Kh. Họ phỏng đoán, làm thơ, tranh giành một cái bóng. Để khỏa lấp, tôi cũng vờ phụ họa theo và cùng tìm đến căn gác nhỏ trong con hẽm Sầm Công – Quảng Lạc… để uống rượu và ‘phi’ ” (sđd tr 196).
Sau đó, có một ”hình tượng ly khách” trong TBH thoát kiếp ve sầu muốn làm con chim báo bão bay trong ”tiếng đời xô động” bỏ lại sau lưng buồn đau, huyền thoại với nỗi lòng rưng rưng, ngậm ngùi… ra đi như ”tống biệt” một quá khứ! Tin hay không tin?
Chuyện Hồ Thông kể cũng chỉ là một trong những “Kể chuyện viên” đang dự thi cuộc thi “Kể chuyện về TT và T.T.Kh?” mà giải thưởng tự các kể chuyện viên tặng cho nhau… cà chua trứng thối cũng từ lâu có rồi!
2. Tìm hiểu sự thật về những lời kể trên:
Người ta thường cho rằng: ”Nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm”. Cái nào cũng cần xét lại vì giá trị ”tương đối” của nó. Nhiều khi những nhà xuất bản có tiếng tăm, những cây bút có máu mặt chưa hẳn đáng tin cậy cho lắm. Công lý nằm trong tay kẻ xấu, nỗi ”Oan Thị Kính” khó gỡ. Cây Thanh Long đao của Quan Công lợi hại nhưng miệng lưỡi Tào Tháo ghê gớm hơn. Cái trí dũng của Chu Du đốt tám mươi vạn quân Tào tiêu tan nhưng cây bút trong tay Khổng Minh mới thần sầu quỷ khóc lấy mạng Chu Du tích tắc giây. Nhưng cây bút là vật vô tri. Cái chất xám kia mới là vô địch, là nguyên nhân của mọi thứ trên đời! Con người bập bênh lên xuống cũng vì nó đấy. Đúng sai cũng từ nó mà ra. Người ta được lợi lộc gì?
NTK là ai? Ông viết “Về những kỷ niệm quê hương” hầu hết nói về ”Huyền thoại về nàng thơ T.T.Kh” như một màn kết thúc vở bi kịch TT – Kh từ sáu mươi năm qua thật hay ”bịa” để dệt ra ”Huyền thoại sau huyền thoại”? Ích lợi gì cho ông đây?
- Nguyễn Thạch Kiên: (1926 – nay) và ”mức độ tin cậy?”:
Theo Huy Phương trong ”Ký sự nhân vật: Nguyễn Thạch Kiên, nhà văn tiền chiến, tám mươi chưa muốn buông bút” (perso.wanadoo.fr), người viết tóm tắt:
Nguyễn Thạch Kiên sinh năm 1926 tại Hà Nội. Quê cha Ninh Bình. Quê mẹ Hưng Yên. Năm 1949, ông đạt giải nhất văn chương do Nhà xuất bản Tân Việt – Sài Gòn tổ chức với tập truyện ”Hương lan”. 1959, ông đạt giải nhất của Tinh Việt văn đoàn do Phạm Đình Tân và Phạm Đình Khiêm tổ chức với tiểu thuyết ”Mùa hoa phượng”. Ông học cải tạo mười một năm vì là đảng viên Quốc Dân đảng. Ông định cư tại Cali theo diện HO 18. Ông viết nhiều thể loại có tập thơ ”Nắng hương cau” là những bài thơ tình mấy chục năm qua ở quê hương. Tập hồi ức ”Búp xuân đầu”, công trình của ông ở cái tuổi tám mươi. Nguyễn Thạch Kiên được coi là nhà văn lão thành kỳ cựu và người hoạt động chính trị tại Hà Nội của thập niên 40 cùng thời với ”Tự lực văn đoàn” và rất được lòng thương của giới văn nghệ sĩ.
Hiện tại, Vũ Hoài Mỹ (chủ trương “Văn học thời nay”) là người lui tới giúp đỡ ông. Một con người sống già dặn qua hai thế hệ tám mươi tuổi chưa buông bút giống như Hoàng Cầm là một tấm gương cho chúng ta nhìn vào tự hỏi mình?
Riêng bài ”Huyền thoại về nàng thơ T.T. Kh”, (Nxb VHTN), ghi rõ là trích trong cuốn ”Về những kỷ niệm quê hương” cuả NTK (Đoạn trích có tên nguyên bản là ”Trong lửa đạn thù” như đã nói ở phần trên). Ta có thể tin cậy được về con người có một quá trình say mê văn chương và hơn nữa, nếu T.T. Kh thực sự là TT thì người ”được” là TT chứ không phải NTK. Việc làm của ông là vô tư. Viết để trả lại giá trị tác phẩm cho tác giả chứ không phải phanh phui vụ việc coi như mình đã giải được mã số văn học bằng những suy diễn vu vơ và áp đặt nhân vật này nọ theo dụng ý mình.
Những người khác cho TT là T.T.Kh như Lê Công Tâm, Anh Đào, Ngân Giang, Nguyễn Tố, Đỗ Nhân Tâm, Hoàng Tấn, Hoài Anh… đều là những người có tuổi, có tiếng tăm, có máu mặt trên thi văn đàn. “Không có lửa tại sao nên khói”. Ta cần kiểm tra thử “lửa” này phát sinh từ đâu ra mà “hun khói” mù trời văn học?
Nghiên cứu văn học là tìm tòi, phát hiện, so sánh, đối chiếu văn bản xưa nhất với hiện đại để thống nhất vấn đề hay giải mã ẩn số văn học bằng lý luận văn học. Nghiên cứu văn học là chấp nhận ôm bom cảm tử vì văn học như kiểu “Mang chất xám rãi lên từng câu chữ. Mượn hồn văn để thử óc hẹp hòi!”.
Trong những kỳ đại hội văn học trong và ngoài nước, chuyện ”giặc văn bút” không còn là bí mật khi người ta tranh nhau từng chức vị và hạ độc thủ nhau trên chiến trận văn bút nên hiện tượng những người làm cái việc mang T.T.Kh về với TT là một đóng góp văn học đáng cho chúng ta cám ơn.
Vấn đề thật hay không thật, sách đã dẫn. Nhà văn, nhà thơ bậc tiền bối đã viết kẻ còn sống, người đã khuất rồi. Bản thân tác phẩm đã, đang và sẽ ”tự bạch” phần nào. Tin hay không tin là tùy theo cách nhìn nhận của mỗi nguời. Người viết bài này chỉ làm một công việc mang lại cho người đọc yêu thích T.T.Kh và TT những ý kiến, những nhận định, những tin tức mới mẻ cho dù là cảm tính hay chủ quan.
Muốn biết được T.T. Kh có phải là TT hay người nào khác, ta cần tìm hiểu thêm về một số vấn đề khác xoay quanh.
3. Tìm hiểu chất giọng thơ của TT và T.T.Kh:
Trước hết: Ông Hồ Thông trong bài viết của NTK có nêu rõ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp 1947, ông có gặp TT trong đơn vị. TT gia nhập bộ đội theo các nhà nghiên cứu là năm 1947. Thời gian đó, quân đội Pháp gây hấn nổ súng ở phố hàng Bún ngày 15-16 /12/1946 theo sách sử (đã nêu trên) và tháng 2/1947 có chỉ thị về việc gia nhập quân đội (sách sử đã dẫn) nên lời ông H Th không sai. Chuyện tham gia kháng chiến của TT là có thật. Chuyện tình TT – Kh cũng có thật. Chuyện TT là T.T.Kh có thật hay không hoặc TT giả còn dựa vào những sáng tác nhất là những sáng tác trước 1940 của TT
TT đến với ”Thơ Mới” muộn màng với làn hơi cổ điển đậm nét phóng khoáng giang hồ nhưng thoát thai ra khỏi bi phẫn để đến với cách mạng mang hơi thở của người chiến sĩ ”trên từng cây số” lại ngắn ngủi hơn chỉ vỏn vẹn ba năm. Như vậy, gần 10 năm sống đời nghệ sĩ (1936-1945) với mối tình như hoa như hương dù đã chia cách có cố quên gì thì cố, dư âm một cuộc tình vẫn chi phối hầu hết trong những sáng tác để đời của nhà thơ tài năng mạng yểu này. TT chỉ có tất cả khoảng hai mươi bài. Nếu làm phương pháp loại trừ hay cộng lại những bài thêm vào và loại ra thì cũng chỉ ngần ấy!
Người hay không phải nói nhiều. Thơ hay không ở dài ngắn nhưng đánh giá một tác giả, một tác phẩm đang có nhiều nghi vấn trong lịch sử văn học quả thật có chút đắn đo… Chép lại những gì người ta đã viết hoặc viết lại những gì người ta đã nói có khác nào ”nhai lại”! Thơ TT mang âm hưởng thơ cổ nhưng có giá trị sáng tạo nhất định trong thi ca. TT đã không là người ”copy” văn học thì người nghiên cứu tìm vào thế giới thơ ca của TT càng không thể chỉ mỗi công việc ”sao y bản chánh”.
Về những bài thơ của T.T.Kh, muốn chắc, ta đi theo hơi thơ của TT qua những bài làm theo thể thất ngôn tự do và lục bát. Những bài thơ tiêu biểu trước khi nhập ngũ 1946 trở về trước theo Tôn Thảo Miên, Trần Hữu Tá, Nguyễn Hữu Đảng (sđd), TT có những bài thơ như: Can trường hành, Vọng nhân hành, Tráng ca, Tống biệt hành. (Trong ”Chọn 10 nhà thơ lớn và 10 bài thơ hay nhất thế kỷ trong văn học Việt Nam”, Phan Thư Soan có đưa ý kiến của nhà thơ Trinh Ðường và tổ bình chọn đã đưa bài ”Trường biệt hành” của Thâm Tâm bên cạnh ”Nhớ rừng” của Thế Lữ, ”Thề non nước” của Tản Ðà, ”Nguyệt Cầm” của Xuân Diệu, “Tràng giang” của Huy Cận, ”Tây tiến” của Quang Dũng… nhưng không biết sách có in lộn ”Tống biệt hành” thành ”Trường biệt hành” hay không?).
MGL (Thơ Thâm Tâm, Nxb VH – 1988), TT có: “Màu máu Ty Gôn, Các anh, Không đề, Bán hoa đào, TBH, Mơ thuở thanh bình, Các anh, Hoa gạo, Ngược gió, Vạn lý trường thành, Chết, Chào Hương Sơn, Ngậm ngùi cố sự, Tráng ca, Can trường hành, Vọng nhân hành, Lưu biệt, Căm thù, Chiều mưa đường số 5″.
Hoài Việt (Thâm Tâm và T.T.KH, Nxb HNV 1991) thêm bài “Đây cảnh cũ, đâu người xưa” do chị Oanh nhà thơ TT cung cấp.
Hồ Thông (Về những kỷ niệm quê hương, Nxb Phượng Hoàng – 1996) thêm: “Hai sắc hoa Ti-Gôn, Bài thơ thứ nhất và Bài thơ cuối cùng”.
Hoài Anh, Đỗ Nhân Tâm, Lê Công Tâm, Hoàng Tấn, Ngân Giang, Nguyễn Tố, Bùi Viết Tân… (VNTNTCTT, sđd) ngoài những bài đó ra, thêm “Đan áo cho chồng”.
NTL (Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nxb VH – 2000) thêm “Một mảnh tình”.
Những bài vừa bổ sung, cũng như những bài đã in thành sách như “Các anh, Dang dở, Đây cảnh cũ, đâu người xưa, Máu máu ti-gôn” ký Thâm Tâm, ĐACC ký T.T.Kh còn nằm trong nghi vấn là chính TT là hoặc “ẩn sĩ” trong mớ thi sĩ Hà Nội làm, nên ta cần tìm cách nào đó tạm thời làm sáng tỏ đó là những bài ký TT hay T.T.Kh nhưng không phải họ làm qua nội dung, hình thức.
a. Xem xét về nội dung:
Xét cái “Ta” mà giới nghiên cứu, phê bình gọi văn hoa là “chủ thể”. Khi đã nói đến cái “ta” thường rơi vào ba trường hợp:
Trường hợp một: Ta là Tôi (Ta=Tôi) tức là “thất vọng tình đời” sinh cái “Tôi” dễ ghét vì thời cuộc, số phận (ngóc đầu không nổi, buồn, chán, thương tâm, muốn bỏ hết…).
Dạng này ”Thơ Mới ” chiếm đa số. “Đau vì nỗi đời vất vả. Đau vì kiếp làm dân một nước nô lệ. Đau vì tủi nhục, nghèo hèn cứ gắn hoài với thân phận” (HT- HC, TNVN). Còn một nỗi đau nữa chính là sự bạc đãi của quê hương mà Vũ Hoàng Chương trong “Phương xa” chua chát:
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh.
… Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi trơ vơ.
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền! Xin ghé bến hoang sơ.
Bến hoang sơ đứng đợi đó đã đưa con thuyền họ rẽ vào hoang vắng khác.
Trường hợp hai: Ta là Ta (Ta=Ta): Cái tôi và ta nhập lại thành cái “Ta” ngạo nghễ đời. Tức là “Thất vọng danh trường” mà ra (con người rơi vào bất đắc chí của văn chương, đèn sách, khoa bảng… không hài lòng với thực tại, chán ghét chế độ…).
Dạng này của Nguyễn Trãi, Chu văn An, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Duyên Anh… với chán đời của Nguyễn Khuyến:
Sách vở ích gì thời buổi ấy
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già!
Nó còn là thất vọng của một lớp trai thời loạn chưa tìm ra một phương hướng đi cho mình mà Nguyễn Bính đã từng bỏ mặc:
Ðời có còn gì tươi đẹp nữa
Buồn thì đến khóc, chết thì chôn.
Trường hợp ba: Ta – Danh vọng - Em (Ta+Danh vọng+Em): Chủ thể này bị chi phối bởi chủ thể khác. Tức là “Thất vọng tình trường”. Dạng này chi phối hầu hết quá trình sáng tác của con người là cái “nền” cho dòng thơ buồn man mác xuyên suốt từng thời đại, băng qua ngàn thế kỷ. Nó ngang tàng và đầy khí phách như trong ”Tình trai” của Xuân Diệu:
Thây mặc kệ thiên đường hay địa ngục
Không hề mặc cả, họ yêu nhau .
… Say thơ xa lạ, mê tình bạn
Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.
Ba dạng thất vọng, tuốt luốt với “Nhất công thành, nhì danh toại” này cùng chảy qua thời đại. TT nằm ở loại nào?
Ta có thể xếp cho thơ TT nằm ở cả ba dạng:
+ Thất vọng tình đời của TT: (Nằm chung với một kiếp người cùng khổ).
Thời buổi loạn ly, chiến tranh khốc liệt, di tản liên miên dẫn đến cuộc sống không ổn định trái với các lẽ “An cư lập nghiệp”. TT phải làm đủ thứ nghề trái với điều “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” nên than thở trong “Không đề”:
Hôm qua không có, hôm nay mất
Ai rú trong đời tám hướng sương
và buồn thân phận trong “Can trường hành”:
Cùng ta tri kỷ không ai ở
Vì đời ta cũng không an cư.
Mượn rượu giải sầu là phương cách mà hèn sĩ thời nào cũng “Nhất túy vạn giải sầu” như thế cả. Nhưng hỡi ơi! “Tửu nhập sầu trường, sầu càng sầu”. Dân gian có câu: “Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”. Tất nhiên, TT trong cảnh hèn, cùng khổ đã không là… “đạo tặc“.
+ Thất vọng danh trường của TT: (Nằm chung với một lớp người cùng hèn)
Ảnh hưởng thời đại (tình đời) làm cho TT không học hành đến nơi đến chốn. Thêm vào đó, TT xuất thân thành phần tiểu tư sản trí thức nghèo (cha là nhà nho dạy học) mà thời “sĩ, nông, công, thương” đã đến hồi tàn mạt. Tiểu tư sản trí thức nghèo rớt mồng tơi này lại nằm trong chủ trương “đào tận gốc, trốc tận rễ” của một thời sai lầm đường lối. Cảnh nghèo khổ được TT ghi lại trong “Tráng ca“:
Nuôi ta, mẹ héo từng năm,
Vắt bầu sữa cạn tê chân máu gầy.
Dạy ta, ba bẩy ông thầy
Gươm dài sách rộng, biển đầy núi vơi
Nhà ta cầm đợ tay người,
Kép bông đâu áo, ngọt bùi đâu cơm?
Lớn lên, lăn lộn với bạn bè chẳng phải tầng lớp cao sang gì trong xã hội:
Bọn ta một lớp lìa nhà
Cháo hàng cơm chợ, ngồi ca lúa đồng
… Bốn phương tản mát bạn bè
Ôi thương đau cho “Giấc mơ anh lái đò” của NB năm nao: ”Tưng bừng vua mở khoa thi. Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng” bay tuốt luốt theo những chế độ thi cử bị thực dân Pháp bỏ (1864, 1915, 1918). TT có gì hơn đâu mà không ngao ngán trong những bài ”Vọng nhân hành”:
Vuốt cọp chân voi còn lận đận
Thằng thí cho nhàm sức võ sinh
Thằng bó văn chương đôi gối hận
Thằng thư trói buộc, thằng giã quê
Thằng phấn son nhơ… chửa một về!
Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch
Ta ghét hoài câu “nhất khứ hề”.
Tài năng không đất dụng võ thì cũng như… ”ngựa chạy cùng đường” mới “rú trong trời tám hướng sương“, mới ngoa một chút trong “Can trường hành”:
Ném chén cười cho đã mắt ta…
Múa lưỡi đánh tan ba kẻ sĩ
Mềm môi nốc cạn một vò men.
Sự say mèm với thất vọng có một Vũ Hoàng Chương ngã nghiêng, ngã ngửa: “Còn chưa say hồn khát vẫn thèm em”.
+ Thất vọng tình trường của TT: (Nằm chung với lớp người cùng yêu mà đau)
Dòng ”Thơ Mới” đã ”Yêu như trăm năm chưa biết đến bao giờ. Nhớ như tự nghìn năm chưa biết nhớ”. Lớp người cùng yêu mà đau đó đã mang về cho thi ca không biết bao nhiêu thi phẩm về một mơ ước cũ mèm của tình yêu mà cả đến bây giờ, dư âm của dòng thơ mới còn tiếp tục:
Cho anh gom hết ngàn thương nhớ
Chôn cả lòng yêu nát rượu mềm.
(Quách Xuân Sơn – Lời cô phụ).
Nỗi buồn ”vắng anh” chỉ một nhưng đau khổ ”vắng em” chiếm mười trong thi ca. Bởi lẽ không có em:
Chiều đơn côi hoang vắng tâm hồn
Không có em khóc thầm bịn rịn
Ngồi một mình sầu với hoàng hôn.
Không có em đường dài vấp ngã
Không có em cây lá đổi màu.
Không có em biển thôi xào xạc.
Sóng ơ thờ gió cũng thôi bay.
(Thùy Lam – Không có em)
Tình yêu là đỉnh điểm của loài người. Tình yêu không ngại chiến tranh. Tình yêu không cầu danh lợi mà hỡi ơi! Con người bèo bọt, ly tan cũng vì hai chữ này. Xuân Diệu yêu cuồng. Hoàng Cầm miệng chưa ráo sữa đã yêu. TT mới nứt mắt cũng yêu khi còn đi học. Tình yêu là nguồn cảm xúc của thi ca nhưng lạ quá, thơ TT chẳng có bài thơ tình yêu nào ra hồn!
Trong “Can trường hành” năm 1944, TT có nhắc qua bóng sắc “giai nhân” nhưng giọng thật chua cay, đau xót một ẩn dụ “hoa như tim” vỡ năm nao:
Thi với người nằm say bóng liễu
… Giai nhân, danh sĩ đua ngao du
Cùng ta tri kỷ không ai ở
… Hôm nay lại nở hoa lý đỏ
Trong rượu vân vân… bao vết cũ
Người chẳng thấy rằng hoa như tim
Hoa nát lòng ta đau vạn thuở.
Trong “Ngậm ngùi cố sự“, TT chỉ “phớt” qua hai câu một vết thương lòng:
Cuối thu mưa nát lòng dâu bể
Ngày muộn, chuông đau, chuyện đá vàng.
“Chuyện đá vàng” tức là hôn nhân. “Tri kỷ” là bạn bè thân thiết, là người yêu chân tình. “Không ai ở”! Bỏ mất hết! Vì lẽ gì? Vì sự “nghèo”, “cho nên tri kỷ tếch phương trời“. TT bị vấp nó với mối tình đầu năm 1936 mới “đau”. Bài thơ này chỉ thấy cái “Phẫn”, cái “Bi” chứ chưa thấy cái “Ái” rõ ràng. Vậy cái hồn này thật ra ở đâu? Tình yêu là nguồn cảm xúc bất tận của thi ca. Biết bao người thơ đã thành thi nhân nhờ nguồn cảm xúc này. TT đã từng yêu, được yêu và đau khổ sao chàng nghệ sĩ tài hoa này không có lấy một bài thơ tình yêu nào? Không lẽ trong anh, chất cảm xúc thiêng liêng này đã mang hội chứng ”lãnh cảm”?
Bài thơ “Một mảnh tình” trích trong truyện “Lá quạt hoa qùy” đăng trên TTTB số 416 ngày 6-6-1942 (NTL, sđd tr 422):
Đôi lứa phương tâm, một mảnh tình
Như trăng vàng mở vẹn gương trinh
Chén sen ráo miệng, thề pha lụy,
Quạt trúc trao tay, ước lỗi hình.
Gió trải luống gào duyên cựu mộng,
Dây oan chỉ riết chí kim sinh!
Say ngùi, ta đốt tương tư thảo
Bóng khói qua mây, lại nhớ mình…
Thơ viết cho truyện nên cái ý tình âm u, ý thơ ướt lệ điển tích “chén sen, mảnh tình, dây oan” trong “tu là cõi phúc, tình là dây oan“! Nhá lên một đóm tình rồi tắt ngủm! Chỉ còn những bài ký tên T.T.Kh là có hơi thở tình yêu. Vậy ta chỉ cần tìm cho ra chỗ: Không phải Kh làm thì ba trong bốn bài thơ đó là của TT. Rồi trong những bài của TT, ta coi thử có mâu thuẫn gì không để loại bỏ bút hiệu Thâm Tâm giả.
Từ nội dung 4 bài ký T.T.Kh và 3 bài ký Thâm Tâm, chúng ta lần tìm ra “những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ” để tìm tình yêu TT với “hồn thơ” “tếch” ở phương nào?
b. Những bài thơ không phải Khánh làm:
Một: Theo TT và những người từng biết như Nguyễn Vỹ: Kh yêu thơ thích thơ nhưng không biết làm thơ. Nghĩa là “rung cảm” nhưng không khả năng.
Hai: Nội dung từng bài chứng tỏ Kh không thể tự mình dám ghi rõ ràng tình yêu của mình lên giấy khi đã lấy chồng. Nghĩa là dù có khả năng nhưng hoàn cảnh không cho phép.
Xét lại những câu thơ bộc lộ rõ tâm sự để đối chiếu với hoàn cảnh thực tại của Kh có thể thấy Kh không thể tự làm:
* HSHTG: Những câu “ngoại tình tư tưởng” đáng “bỏ lồng, dìm sông” trong thời đại cũ:
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ…
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Kh tự bỏ TT đi lấy chồng. Kh chẳng thể liên lạc với TT bằng thư từ, điện thoại nên chồng Kh làm sao có thể biết trong ruột người khác khi người ta không muốn nói ra? Không lẽ, chồng Kh cũng đoán mò như Xuân Diệu: “Cùng giường khác mộng sao em”? Theo tâm lý, thằng chồng biết được, nó không “hững hờ” đâu! “Nó… dần cho nát cái xương. Nó ”thương” đến hết kiếm đường… đầu thai!”. Chết chắc!
Nguyễn Vỹ trong bài“Thâm Tâm và sự thật về T.T.KH.” (sđd), khẳng định cô nữ sinh tên Kh muời bảy kia không hề có chút gì luyến lưu với TT khi lấy một thương gia goá vợ, ba mươi tám tuổi: “… Chàng yêu nhớ đơn phương với mặc cảm của một nghệ -sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo đùa bỡn, nhất là Vũ-trọng-Can. Vì một chút tự ái văn nghệ, đối với mấy người kia, Tuấn-Trình đã phải thức một đêm, theo lời anh, làm một bài thơ đề là “Hai sắc hoa TiGôn” ký T.T.Kh. với thâm ý để Trần-huyền-Trân và Vũ-trọng-Can tin là của Khánh làm, để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn-Trình dán kín bao thư rồi nhờ cô em họ, con gái của người cô ở góc Cửa-Nam, mang thư đến toà báo. Cũng chính cô em họ đó đã chép giùm bài thơ với nét chữ con gái dịu dàng của cô, để khỏi bị nghi ngờ… Cô Khánh không biết làm thơ. Cô chưa bao giờ làm thơ cả! Và cô ghét những bài thơ Thâm Tâm nữa là khác. Tuấn-Trình đã nói quả quyết với tôi như vậy, sau khi nhận được một bức thư của Khánh, bức thư cuối cùng, tỏ ý KHÔNG BẰNG LÒNG anh mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong thư phản đối đó, Khánh xưng TÔI, chứ không phải xưng EM như những thư trước, để chấm dứt trò chơi vô ích ấy. Thâm Tâm lấy những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm ra BÀI THƠ CUỐI CÙNG”.
TT trở thành kẻ yêu đơn phương theo lời Nguyễn Vỹ? TT làm HSHTG vì muốn THT và Vũ Trọng Can không cười mình? Chỉ thế thôi sao?
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người.
Nếu bài này do cô Kh làm thì đây là bản nhận tội không ai cứu nổi. Bản thân Kh có học, biết lễ nghĩa gia giáo. Nghe mẹ, bỏ TT, nàng được coi là hiếu nữ. Lấy chồng, nàng sẽ giữ chữ “xuất giá tòng phu”. Có than, nàng cũng than trong lòng̣. Có nhớ, nàng cũng chỉ được phép nhớ trong mơ. Kh can đảm cỡ nào mà đem chuyện “phòng the” lên báo? Tự mình mang thơ lên tận tòa soạn để đưa?! Vô lý và vô ích! Tòa soạn TTTB đăng ba bài thơ ký T.T.KH chính là nơi TT làm việc. Nếu TT biết rõ ba bài thơ đó là Kh làm, TT không thể trâng tráo đi kể hết người này tới người khác về việc nhận mình là T.T.Kh? TT không biết thẹn lòng sao? Bạn bè của anh ai cũng biết chuyện này cả. Họ không cười vào mũi cho à? Chúng ta đừng nghĩ là THT, NB “như không hề biết chuyện này”. Chỉ có điều, thiên hạ không chịu tin một sự thật phũ phàng như thế. Ai cũng muốn nó mãi mãi là huyền thoại là cũng vì yêu thương TT. Với người con gái tên Khánh kia, nàng không còn xứng đáng với anh chứ đừng nói có tâm hồn làm ra những bài thơ đầy sóng gió như thế! TT đã một lần bị sỉ nhục vì cái nghèo, anh không thể nào để cho T.T.Kh coi thường anh trong tư cách là một người từng yêu hết lòng và một nhà thơ chân chính! Trái tim bồng bột của tuổi hai mươi đã làm ra hỗn loạn văn học mà bây giờ, chúng ta cần tránh những trường hợp “ốc mượn hồn”. Ta chắc bây giờ cũng không ai gan mà đọc những câu thơ như thế ngay trong gia đình riêng của mình chứ đừng nói cách đây 2/3 thế kỷ! Câu thơ hay nằm trong ngữ cảnh trái sẽ thành: Bạc bẽo, bẽ bàng cho hai phía. Chắc chưa có “bà xã” không biết ghen nên TT chưa nếm mùi cái “ghen” của người ”giơ cao, đánh… thật” nên người viết mới đi xa thêm:
Nếu biết rằng tôi đã có chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?
Nghe tê tái lắm nhưng người vì hiếu nghĩa mà “lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công bác mẹ sinh thành ra em” tức là tự mình quyết định ”lìa” cội rễ tình yêu. Có chồng là bao nhiêu vướng víu, bận rộn, lu bu 24/ 24 khiến cho quay mòng mòng đầu bù, tóc rối hơi sức nào mà nói đến thơ mà thơ câu nào cũng “đốt lòng”, đốt luôn nhà người ta nữa.
Không thương người ta mà lấy người ta, than thở như vậy hỏi người làm chồng có ê mặt hay không? “Người ấy có buồn không?” té ra, chính là kẻ “sang sông đứng ngóng đò” đưa tiễn chim sáo ngày xưa sang sông. Kẻ đó nếu không chính là TT chẳng lẽ là NB là THT, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương hay Võ Trọng Can? Nỗi lòng đau khổ đó đã được lập đi, lập lại nếu không là TT thì Kh chẳng thể nào dám viết một tiếng lòng rên xiết như thế cả. Nhưng nhân vật trong thơ do tác giả hư cấu từ hiện thực thì có sao đâu!
Bây giờ, ta xem nội dung bài có ứng với con người TT hay không? Cứ coi như TT viết hết bốn bài trên. Không ai hiểu lòng Kh bằng TT. Sự ra đi không báo trước của Kh làm TT hụt hẫng về tinh thần. Chới với trong tình huống bất ngờ chẳng được báo trước, người ta phản ứng… chụp cây viết, viết cho thỏa, cho xong một tấm lòng như khi người đàn ông nổi cục tự ái bự. Không biết tác giả nào đã cho ra đời những câu thơ vui vui nhưng chua chát như sau:
Nếu biết rằng em đã có chồng
Anh về cưới vợ thế là xong.
Vợ anh không đẹp bằng em lắm
Nhưng đẹp hơn em ở tấm lòng.
Bốn câu vô tác giả trên hay hơn nhiều cả nội dung và nghệ thuật bài thơ dưới đây của Hồ Drếnh:
Rồi một ngày mai em lấy chồng,
Anh về lấy vợ thế là xong,
Vợ anh không giống em là mấy,
Anh lấy cho anh đỡ lạnh lùng.
Vợ anh và em chẳng biết ai đẹp hơn ai nhưng “đẹp hơn em ở tấm lòng” chứ không phải là kẻ không cơm, thế cháo “anh lấy cho anh đỡ lạnh lùng”. Người ấy chính là vợ TT. Bà đã không chê TT khổ, chịu lấy chàng nghệ sĩ nghèo, đồng chia nỗi đau thất tình của TT và tôn trọng quá khứ của chồng đến khi nhắm mắt! Đó là trường hợp hiếm có. Đàn ông nói chung “cả thèm, chóng chán“. Đàn bà không ai riêng, lặng lẽ ngược ngang. Nhưng TT lại là loại đàn ông lặng lẽ như Trần Quốc Sỹ “Khóc tình” :
Ta thắp nến khóc tình yêu vừa chết
Hấp hối sau cơn sốt bỗng vật vờ.
Tình yêu nào, ai biết đâu đoạn cuối
Cứ ngỡ rằng tình vẫn mãi là thơ.
Bài thơ 4 câu cho là của Hồ Drếnh chẳng biết có thật hay không nhưng bài “Nàng đi lấy chồng” là thật vì nó là của… NB:
Hôm nay ăn hỏi tưng bừng
Ngày mai thì cưới, độ chừng ngày kia.
Nàng cùng chồng mới nàng về
Rồi cùng chồng mới nàng đi theo chồng.
Tôi về dạm vợ là xong
Vợ người làng, vợ xóm Đông quê mùa
Vợ tôi không đợi, không chờ
Không nhan sắc lắm, không thơ mộng gì.
Lấy tôi bởi đã đến thì
Lấy tôi không phải bởi vì yêu tôi.
Hôm nay tôi lấy vợ rồi
Từ đây tôi sẽ là người bỏ đi.
Pháo ơi, mày nổ làm gì?
Biến ra tất cả pháo xì cho tao!
Ta thấy, NB “trẻ con” theo cách NB: Khi nàng có chồng thì… trù ẻo”pháo xì”! Đám cưới ngày xưa rôm rả nhờ pháo nổ dòn. Xì hết là xui xẻo tận cùng!
TT “trẻ con” theo kiểu TT: Dệt nên một vở kịch, tạo nên một huyền thoại mà TT tự cho là “trẻ con”.
Trong thi ca đâu mỗi chỉ mình TT mang tình mình vào huyền thoại mà còn có một Tâm Thư với ”Trẩy hội đan tay”:
Cũng đành đem dấu vết xưa
Vào trang cổ tích cho vừa nhánh thương.
Cũng đành chia nửa con đường
Cho trăm năm vỡ cho hờn đánh rơi.
Kh đã không thể viết những dòng cổ tích để dệt quanh mình một huyền thoại vô tư. TT viết cho nàng nhưng cái chính là viết cho mình. Mai mốt, cô vợ đẹp ở “tấm lòng kia” có đọc lại dòng thơ của chồng viết cho ai đó thì cũng chỉ nghĩ là: Tâm trạng của một nhân vật cô gái mà chồng đã dựng lên mà thôi. Nàng… thở dài cho qua.
Dòng trữ tình thường mang đôi cánh lãng mạn. Tâm trạng bao giờ cũng được che chắn bởi hàng hàng, lớp lớp từ ngữ, hình tượng từ hiện thực đến tưởng tượng. Ði sâu quá vào ngữ cảnh thật của thi ca là chẳng đúng với cách phân tích giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Nếu với mỗi một thi phẩm ta cứ tìm cho bằng được: Họ là ai? Ai yêu ai? Nam là ai? Nữ là ai?… thì dung tục quá! Bởi vì có những thi phẩm chỉ là sản phẩm của trí tuệ. Ví dụ Lưu Trọng Lư đã tưởng tượng một “con nai vàng ngơ ngác dẫm trên lá vàng khô” thì làm sao mà kiếm cho được con nai vàng ngơ ngác kia, làm sao mà… moi cho ra được cái rừng nào có con nai vàng ấy xuất hiện tại thời điểm đó?
* Bài thơ thứ nhất: Có những câu sau đây:
Biết đâu… tôi một tâm hồn héo,
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!
Có bài đăng chữ Nghiêm viết hoa, có chỗ viết thường chẳng ai hiểu gì cả. Nguyễn Vỹ (sđd) có đề cập vô tư đến chữ này: “Trần-thị-Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: ‘Thầy mẹ em NGHIÊM lắm, gia đình em NGHIÊM lắm’. Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ NGHIÊM gia giáo ấy để trả lời kỳ vọng khát khao của người yêu”.
Nếu hay dùng chữ đó, chỉ có Kh làm nhưng Kh làm như thế chẳng khác gì Kh chê chồng già quắc, già quéo mới hững hờ, mới lạnh nhạt. Tâm lý người đàn ông trong chuyện gối chăn mà bị chê thì coi như… tàn phế! Vả lại, giả như có ai đó lấy trúng loại chồng “nghiêm” như thế suốt ngày lăm lăm cái… roi cá đuối, cô vợ trẻ kia có mà ngồi yên viết với lách, có trốn trong hốc nào thì nó cũng… moi ra… hành cho cái tội chê chồng cho biết cái thân!
Ông nói gà. Bà nói vịt. Chỉ có gia đình TT là im lặng. Người không nổi ghen vì cái tên Kh và những bàn luận về cuộc tình duyên tréo cẳng ngỗng này chỉ có bà TT Phạm Thị An. Tất nhiên, nếu biết cái tên Kh là giả, những bài thơ ký T.T.Kh không phải “tình địch cũ”, tất nhiên, bà ghen làm quái gì! Thái độ của bà An chính là câu trả lời trong bóng tối mà rõ nhất đó thôi! “Ớt nào là ớt chẳng cay?”! Nghĩa là bà chẳng biết, chẳng hay, chẳng để ý chuyện riêng của chồng. TT cũng không: Không nói. Không kể. Không bàn chuyện Kh sau khi kết nghĩa “đá vàng” với bà Phạm Thị An năm 1945.
Ta hiểu chữ “nghiêm” theo cách hiểu “nghiêm” như TT đã áp dụng nó cho gia đình mình. Kết quả là: Gia đình TT không có tư liệu gì chính xác hơn những dư luận huyền hoặc 2/3 thế kỷ trôi qua ngoài một bài báo “Cha tôi trong nỗi nhớ” của Nguyễn Tuấn Khoa đăng trong báo Văn nghệ mà Hoài Việt có dẫn trong sách mình.
Có lẽ vì nói về người chồng của Kh hơi quá nên mười năm sau, vỡ lẽ ra, TT mới tự kiểm điểm trong đêm kể chuyện này cho một người bạn tên Hồ Thông“Trong lửa đạn thù” (sđd tr 189-203): “Chồng Kh là một thương gia mới 38 tuổi có luống tuổi gì đâu”. Thật ra, làm một phép tính nhẩm: Chồng Kh ít nhiều cũng hơn Kh một con giáp rưỡi. Lấy chồng tuổi ấy gọi cha là vừa!
Xót người nên nghĩ tới người, viết cho ”người” nếu không TT thì cũng chẳng có ai “thương dùm phận gái thuyền quyên như nàng” bằng TT. Có đau thương gì thì người trong cuộc cũng phải tìm cách đi vào đoạn kết.
Chúng ta cũng thấy sự không thống nhất của cùng một tác giả T.T.Kh khi viết bài thơ thứ nhất HSHTG. Sau đó, thêm bài thứ nhì mà gọi là… BTTN. Vậy, bài HSHTG không phải chính mình làm thì ai làm lại ký cùng bút hiệu đó?
Thập niên giữ thế kỷ XX, báo muốn ăn khách toàn chơi cái chiêu “ốc mượn hồn” cả. Nghĩa là lấy tên người có danh để tiếp tục viết như trường hợp đàn em của Lê Văn Trương:“Lê Văn Trương lại được ông Vũ Đình Long com-măng nhiều cuốn khác và hối thúc liên tục. Lê Văn Trương đành phải ‘lập ê kíp’ viết. Ê kíp Lê Văn Trương gồm có Đặng Đình Hồng, Tân Hiến và vài ba người khác dấu tên… người đọc tinh ý sẽ thấy cuốn nào văn phong Lê Văn Trương, và cuốn nào do các đàn em Lê Văn Trương viết” (Huyền thoại về nàng thơ T.T.KH. NTK, sđd tr 35).
Điều này, chúng ta sẽ thấy rõ sự “xuống sức” của T.T.Kh trong BTCC.
* BTCC: Bài thơ có những câu như sau thật ”nguy hiểm”:
Và người vỡ lở duyên thầm kín,
Lại chính là anh, anh của em!
Tôi biết làm sao được hỡi trời?
Giận anh, không nỡ nhớ không thôi!
Nghĩa là người trong cuộc vẫn còn thương nhớ mối duyên “thầm kín” và “nhớ không thôi”. Nhưng từ ”Anh anh, em em” ngọt sớt kiểu này gặp thằng chồng hung dữ vì ghen… nó cắt lưỡi. Từ đây, ta thấy có người đã đứng bên lề với bút hiệu T.T.Kh. Xuân Diệu từng tự trách: ”Em ác quá lòng anh như tự xé” theo cách yêu của Xuân Diệu. Mạc Phương Ðình trong bài ”Ðành” có cách trách của riêng mình:
Mắt ta bé mà tình em lớn quá
Ta ngu ngơ nhìn ngó nhận không ra.
Vòng tay hẹp không đủ ôm biển cả
Lòng đu đưa trong cõi ta bà….
Chắc tiền kiếp ta mang đời kẻ chợ
Ðem tình yêu thả gió lang thang.
Em qua đó vô tình mắc nợ
Ðể cùng ta rơi xuống chốn địa đàng.
TT và Kh ai đã mắc nợ ai mà:
Mưa buồn, mưa hắt, trong lòng ướt…
Sợ quá đi, anh …”có một người”…
Hai câu thơ như… vô nghĩa! Viết đến đây, T.T.Kh coi như… đuối sức, viết… bậy rồi… bỏ chạy! Cái người này là ai ngoài “anh của em?”. Tiếc thay, sự yêu thương đó sang bài thơ dưới đây có những lời thở than ngằn ngặt, mệt mỏi lạ lùng:
* ĐACC: Bài thơ này có những câu ”thêm dầu vào lửa”:
Đáng thương những kẻ có chồng như em,
Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
Đan đi đan lại áo len cho chồng.
… Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
Như con chim nhốt trong lồng,
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao!
Người lấy chồng chẳng những không hưởng được vòng tay ấm áp mà chỉ thấy cảm giác lạnh lùng. Nét tâm lý này có thể âm thầm chịu đựng thì thật là một sự hy sinh cao cả. Thật ra, nét đẹp của người phụ nữ ”phu xướng, phụ tùy”, thờ cha, kính mẹ bên chồng còn thể hiện theo từng đường kim mũi chỉ. Không yêu nhưng sống trong một mái nhà buồn vui ấm lạnh đủ cả, chẳng lẽ người trong cuộc nào mà không có chút tình dù chỉ là tình người? Ví dù người chồng kia có ”hững hờ” gì đi nữa nhưng mặc cái áo mà vợ chăm chút đan cho có lý nào chẳng chút động lòng? Nhưng bây giờ thì ”lửa bỏng hỏng xôi” hết trơn. Đan cho chồng cái áo mà than ngắn thở dài, lòng tưởng nhớ ai thì thằng chồng mặc vào còn hơn gai chích hơn kim châm? ”Nàng than nàng lạnh nhưng ta có chiếc áo nàng đan cho, mặc rồi, ta còn cảm giác lạnh lẽo hơn nàng”. Kh có dám nhùng nhằng như thế đâu nếu nói không nỡ lòng?
Nhưng nghĩ cũng vui: Bỏ thì không dám, vương thì phải cam. Một chiếc áo đan hết mùa đông cũng chưa xong. Gặp bà già chồng khó chịu sẽ mắng con dâu thêu thùa vá may dở ẹt! Bà ta nóng ruột sẽ giật phắt cuộn len mà tự mình đan giùm cho con trai là nàng… khỏe re. Còn thằng chồng chờ mãi chờ hoài không có áo, lạnh quá chịu hết xiết… ra tiệm mua quách. Sướng! Nàng giam mình đan mỗi cái áo lâu lơ, lâu lắc như cố ý kéo dài thời gian khỏi… đi chợ? Thật ra, con chim hót, chim nhốt trong lồng mới an toàn, ra ngoài đứng hót không bị mèo chụp cũng vướng ná bắn chim, kêu than cái gì nữa ?!! Rên la ầm ĩ, thằng chồng vớ được tờ báo đọc hay có kẻ nào thóc mách khẽ… rỉ tai. Thế là chàng nếu mà không xửng cồ, thì cha chả cũng bừng gan trào lửa hận cho con vợ: ”Lấy chồng vẫn tưởng trai tơ”. Nó… vặt cho con chim hót trong lồng kia không còn… một cọng lông để mà trông mà ngóng?!! Thử hỏi một thời T.T.Kh nổi lên, báo chí Hà Nội ầm ĩ đưa tin mà chồng cô chẳng hề đọc nổi một tờ báo để “biết thêm chi tiết”?! Thương gia chứ không thương… báo là thế! Vì thế. T.T.Kh mới trang bị hệ thống thông tin cho chồng nhân vật:
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ…
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
Như đã nói trên, Kh là cô gái có học dù theo Nguyễn Vỹ: “Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp Nhất trường Tiểu học Sinh-Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ… là một thiếu nữ đẹp, nét đẹp mơn mởn của cô gái dậy thì, thùy mị, nết na, nhưng không có gì đặc biệt”. Ít ra, cô ta cũng biết lễ nghĩa, hiếu đạo, không có thì giờ ngu ngốc “mổ bụng”, phơi ruột gan cho thiên hạ xem. Cái tinh thần võ sĩ đạo này hãy để cho đàn ông Nhật làm đi. Cái tinh thần này, Kh có nằm mơ cũng không dám thấy. Giả sử Kh làm thơ, đăng báo. Đăng để làm gì? Cho TT biết được tin tức về nàng chăng? Càng vô nghĩa vì khi người ta đã lẩn trốn tức là xác định cho mình một con đường đi tức là những mối dây liên hệ quá khứ sẽ bị thời gian và bổn phận cắt đứt! Kh không thể viết một bài thơ tự treo cổ con chim trong lồng như bài ”Đan áo cho chồng” như thế cả .
Nhưng nếu TT hay ai đó viết dùm tâm sự cho Kh có được không?
Nhưng với những bài thơ của TT, của T.T.Kh thì đây cần hiểu là một trường hợp đặc biệt. Nếu người ta đừng cho T.T.Kh là Kh – cô bé Khánh của TT, chúng ta không cần mất công tìm ”người ấy” trong bài thơ làm gì. Nếu T.T.Kh là Kh thì cũng đâu có mắc mớ gì cần đi chứng minh có phải Kh viết hay không?
Bốn bài trên, cô Khánh không thể làm. Chúng ta xét tới TT.
c. Những bài không phải TT làm:
Chúng ta cũng loại trừ khả năng yêu quý TT mà nhập nhằng trong suy xét. Bởi lẽ, không nhà thơ, văn nào mà chẳng có vài bài thơ, truyện dở xen lẫn những bài hay. Có một điều khiến ta cảm thấy như là một sự không bình thường như đã nêu ở trên là TT không có một bài thơ tình yêu nào ra hồn ngoài thi phẩm TBH chưa ngã ngũ giữa đôi bờ đưa tiễn người bạn hay tiễn đưa lòng?
TT làm nhiều thể loại: Thất ngôn bát cú, Thất ngôn tự do, Lục bát, Ngũ ngôn và Tự do.
+ Thể lục bát: Đan áo cho chồng, Đây cảnh cũ, đâu người xưa, Màu máu Ty-Gôn, Các anh (2 bài 16 câu hay 64 câu):
Trước hết, ta hãy đọc “e thơ” lục bát của TT trong các bài thơ đã được MGL và NTL tuyển vào sách mình. Chúng ta để những bài thơ lục bát có dính dấp tới T.T.Kh sau.
Bài thứ nhất: Bản của NTL (VNTNTCTT, Nxb VH – 2000):
Chào Hương Sơn
Thôi chào tất cả non Hương
Thôi chào, ôi tiếng tầm thường mà đau!
Một phen tri kỷ cùng nhau,
Khói sương trời đã nhuốm màu thời gian.
Rượu khuây giấc tỉnh canh tàn,
Sóng sông như đội vô vàn nhớ thương…
Thôi chào tất cả non Hương!
Thôi chào, ôi tiếng tầm thường mà đau!
Chia tay còn vẩn bóng sầu,
Mắt xanh ai giữ được màu thời gian?
Sóng sông róc rách khuya tan,
Lạnh nghe thổn thức hơi đàn biệt li.
Ngày xuân đẹp lắm làm chi
Quan sơn ngơ ngẩn đường về cho ai!
(Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 416, 6-6-1942)
So sánh bản của MGL, có khác từ: Khuya tan/khuya tàn chắc do lỗi đánh máy trong bản của NTL. Bài thơ này, MGL ghi năm 1942, NTL ghi đầy đủ hơn như trên. Ngày 6 tháng 6 năm 1942 đúng là ngày thứ bảy (tiêu chí để khẳng định đúng ngày TTTB phát hành) tức ngày 23 tháng 4 năm Nhâm Ngọ 1942.
TT chia tay Hương Sơn năm 1942 để trở về. Về đâu chẳng ai biết được? Hương Sơn có hai điểm: Hương Sơn thuộc Ngũ Hành Hương của Đà Nẵng và Hương Sơn là một huyện. TT đi địa điểm nào?
Huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh – nơi tạm trú quân của Lê Lợi – Nguyễn Trãi năm 1418-1424 và nơi Khởi nghĩa Hương Khê của Cao Thắng – Phan Đình Phùng đánh Pháp những năm 1885 – 1895 ở núi Vũ Quang. Hương Sơn là thiên đường của những người đi săn và nơi hoa quả phồn vinh bậc nhất xứ Nghệ. Hương Sơn là nơi có hàng trăm cử nhân, tiến sĩ “vinh tông diệu tổ” một thời chưa biết đến “đạo văn” luận án văn chương. Hương Sơn tựa lưng Trường Sơn, nhìn ra Sông Lam, núi Hồng Lĩnh. “Sóng sông như đội (như dội) vô vàn nhớ thương” trong TT chính là những con sông Lam, sông Ngàn Sâu, sông Phố, sông La và non Hương chính là núi Hồng Lĩnh (đi mô rồi cũng nhớ về Hà Tĩnh, nhớ núi Hồng Lĩnh, nhớ dòng sông La…) tựa lưng Trường Sơn “đông nắng tây mưa”, giáp vùng Thiên Nhẫn bao la, điệp trùng xanh núi. TT đến Hương Sơn để làm gì? Săn bắn? Không! Để vẽ. Có thể. Để nghe hát chèo trên sông nước sông Phố vốn hiền dịu và mê ly một thời rác rưởi chưa đổ vẩn dòng sông hiền? Người dân Hương Sơn chăm làm, mến khách và tiếng hát nỉ non với “hơi đàn biệt ly” trên dòng sông ngã ba Phủ đã níu bước chân lữ khách giang hồ, dọc đường gió bụi, TT “một phen tri kỷ cùng nhau” làm lữ khách quay gót còn “ngơ ngẩn đường về”. Giọng thơ “tức cảnh sinh tình” của TT vẫn có cái gì đó man mác của thời cuộc (màu thời gian, quan san, thôi chào, ôi tiếng tầm thường mà đau…), ngậm ngùi của cuộc đời ô trọc (rượu khuây, ngày xuân đẹp làm chi…) và áng thơ bàng bạc một nỗi buồn như hờn lẫy thế tình (khói sương, sóng dội, mắt xanh ai giữ được màu thời gian...).
Tiếng lòng TT chính là ở chỗ tình người – tình cảnh gắn bó nhau để bật ra tiếng thơ TT tha thiết, ngậm ngùi, man mác…
Bài thứ hai: NTL (sđd):
Tráng ca
Sinh ta, cha ném bút rồi,
rừng nho tàn rụng, cho đời sang xuân,
Nuôi ta, mẹ héo từng năm,
vắt bầu sữa cạn tê chân máu gầy.
Dạy ta, ba bẩy ông thầy,
gươm dài sách rộng, biển đầy núi vơi.
Nhà ta cầm đợ tay người,
kép bông đâu áo, ngọt bùi đâu cơm?
Chông gai đổi dại làm khôn,
ba vòng, mòng sếu liệng tròn lại bay…
Bông hoa chu giáp vần xoay
cánh vàng non nửa đài gầy tả tơi…
Chữ Nhân sáng rực sao trời,
đường xe mở rộng chân người bước xa…
Bọn ta một lớp lìa nhà ,
cháo hàng cơm chợ, ngồi ca lúa đồng,
Hây hây tóc óng từng vòng,
gió nào là gió chẳng mong thổi lùa!
Trường đình phá bỏ từ xưa ,
đất này sạch khí tiễn đưa cay sè.
Bốn phương tản mát bạn bè,
nhớ nhau hẹn quả mùa hè gặp nhau.
…Rầm trời chớp giật mưa mau,
lửa đèn chấp chới, khói tàu mù u,
Bốn phương đây bạn đó thù
hiệu còi xoáy lộng bản đồ năm châu
- A, cơn thảo muội bắt đầu,
tuổi xanh theo gió ngậm câu dặm dài.
Thét roi lượng sức ngựa tài,
coi trong cuộc rối tìm người chờ mong…
Trai lận đận, gái long đong
chờ mong khắc khoải nản lòng dăm ba;
Nẻo về gốc mẹ cỗi cha
thuyền ai nặng chở món quà đắng cay!
Từng nơi xống áo trùng tay,
gió thu thổi bạc một ngày lòng son;
Từng nơi cơm trấu, áo rơm,
mưa xuân nhuốm tái mấy cơn mặt vàng.
Vượn kêu ruột buốt trên ngàn…
Nhưng thôi! Sao việc dã tràng lầm theo?
Nện cho vang tiếng chuông chiều,
thà đem sức sớm đánh kêu trống đình;
Thở phù hơi rượu đua tranh,
quăng bay chén khói tan thành trời mưa.
Dặm dài bến đón bờ đưa,
thuyền ai buồm lái giúp vùa vào nhau,
Kia kìa lũ trước dòng sau,
trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương
(Tiếu Thuyết Thứ Bảy, số 6, 11-1944)
So với bản của Hoài Việt trong “Thâm Tâm và T.T.KH” (Nxb HNV – 1991) và bản của MGL trong “Thơ Thâm Tâm” (Nxb VH – 1988) có khác (không tính dấu câu): Chữ Nhân không viết hoa, toàn câu thứ 8 trong lục bát viết hoa đầu câu, khác từ thà đem/thù đem, quăng bay/ quăng tay. Bản của NTL khác hơn hai bản này và có ghi số báo, ngày đăng trên TTTB như trên. Rất tiếc, không ghi ngày cụ thể. Trong tháng 11/1944 (Giáp Thân) có 4 ngày thứ bảy rơi vào các ngày: 4. 11.18 và 25. TT có nhắc tới mùa thu (gió thu thổi bạc) nhưng cũng có nhắc tới mùa xuân (mưa xuân nhuốm tái) nên chịu!
Với “Tráng ca“, TT đã hồi ức bằng thơ hoàn cảnh nhà mình, bạn bè, thời cuộc, đất nước. Chúng ta có thể tìm thấy trong bài 48 câu lục bát này nỗi lòng của tác giả vào cái tuổi 27 chưa lập gia đình. Thời tác giả ra đời thì cha đã “ném bút” thất nghiệp với nghề dạy chữ Nho. Người mẹ héo tàn cuộc đời để “vắt bầu sữa cạn” nuôi con. TT dù trong hoàn cảnh túng thiếu vì nghèo khổ, không học hành đến nơi, nhưng cha mẹ vẫn dạy một “Chữ Nhân sáng rực sao trời”. Bạn bè toàn những đứa “lìa nhà” như THT, NB, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng… vì nghèo khổ, thuộc loại bỏ đi của “cháo hàng cơm chợ” trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm “đây bạn đó thù” tức từ thực dân Pháp đến phát xít Nhật đang thống trị Đông Dương trong thế chiến thứ hai (1939-1945). Thanh niên thời loạn với chí khí “thét roi, nện chuông, đánh trống, quăng chén…” cho hả hê được TT thể hiện rất khí phách dù lời thơ thống thiết một nỗi buồn trong một thời “đua tranh“. Nó đánh thức những công việc “dã tràng” để quy về một mối “chờ người tìm mong” với câu thơ kết thúc bài “Tráng ca” rất hay, đầy ẩn dụ: “trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương” có thể mở ra một đề thi đại học, một luận án văn chương…
Đây đúng là giọng thơ trầm hùng, buồn vời vợi đầy tình người, trong vắt như gương của TT. Giọng thơ của TBH năm 1940 âm vang…
Bài thứ ba:
+ “Đây cảnh cũ, đâu người xưa”, chị Oanh nhà thơ đọc cho Hoài Việt chép là bài thơ vừa 6 chữ, 7 chữ, vừa lục bát của TT làm năm 1941. Người chị này còn cho là “bài thơ đầu tiên” của TT?! Nhưng lạ kỳ thay, TT thấy cảnh cũ, chàng ta không những không nhớ tới Khánh mà lại nhớ cô Trinh nào đó:
Đây cảnh cũ, đâu người xưa
Đây cảnh cũ, đâu người xưa
Tình cũ năm qua để hững hờ
Hoa dẫu mỉm cười nhưng có ý
Phảng buồn mặt phấn nét tương tư
Giận thời gian, tiếc ngây thơ
Lòng xuân tình cảm bây giờ gửi ai?
Trinh xuân mộng cũ đi rồi
Cảnh sinh xa vắng ngậm ngùi ly tao
Gặp Trinh trong bóng xuân đào
Đang khi quãng gió dạt dào chim ca
Má hồng, hồng đượm hương hoa
Rung rinh đọng giọt phấn nhòa sương rơi
Hoa xuân thắm, nụ xuân tươi
Quyện hoa hơn hớn, lòng ơi mộng lòng
Trinh tay nâng giấc cánh hồng
Với vần thơ hái mơ mòng tôi yêu…
Cảm nhau từ đấy xuân chiều
Cành thơ, lá gió dập dìu ngân nga
Tìm Trinh trong nắng tôi ra
Lời oanh ríu rít vuốt hoa Trinh cười
Nhưng đây nắng liễu buồn ơi !
Ba xuân nẩy nét chia phôi chim ngừng….
1941
Bài thơ lại do người chị tên Oanh của TT đọc lại cũng trật vài từ như từ “chiêm bao” trên với từ “chim ca” trong “Thâm Tâm, cuộc đời ngắn, tiếng thơ dài” (Hoài Việt, Nxb Trẻ – 2003). Bài này mà cho là “bài thơ đầu tiên” của TT? Vậy thì TBH được TT làm năm 1940 thì là bài thơ… “thứ nhất”?
TT hồi ức một hình ảnh của một cô Trinh ngày cũ vào một mùa xuân tươi roi rói với “bóng xuân đào, dạt dào chim ca…” với những ấn tượng cũ của bút pháp lãng mạn tự nhiên dung tục “hoa hơn hớn, ơi mộng lòng, mơ mòng tôi yêu…” và sáo ngữ: “rung rinh động giọt phấn nhòa sương rơi, quyện hoa hơn hớn, nâng giấc cánh hồng, ríu rít vuốt hoa, ba xuân nẩy nét...” là từ gợi tả nổi. Trong “Chào Hương Sơn”, “Tráng ca“, TT không có nhắc tới chữ buồn mà chúng ta cũng thấy man mác một nỗi buồn. Bài này, ngược lại, TT nhắc chữ “buồn ơi” mà chúng ta chẳng thấy rung động xí xi nào! Vì sao? Lời thật mới động lòng ta. Lời ba hoa ngữ thì là dửng dưng! Lướt qua, đã thấy chẳng phải “e-hơi” thơ TT. TT không làm thơ tả cảnh, tả tình phơi phới bao giờ. TT là một họa sĩ. Những nhà điêu khắc, họa sĩ thường tạo cảnh bằng đường nét, màu sắc với ẩn dụ chìm. Cho nên, thơ TT thiên về cái “tôi – ta” tâm sự trùng trùng bằng những bức họa bằng thơ. TT chưa gì đã chào hàng bằng thứ hàng lục bát khó nuốt và nhắc nhở về một cô Trinh nào với lời lẽ chả chớt, vô hồn, sáo ngữ. Đừng nói chi trong khi TT đã đau khổ vì tình xưa với Kh? TT còn trâng tráo mơ mộng cô nào?
Ta rất tiếc là không có ai trong MGL, NTL, Thế Phong, Hoài Việt hay những ai từng tự khẳng định mình đã đọc TTTB hay “Tiếu Thuyết Ba Xu” mà lại không đọc được bài này! Bỏ sót hay cố tình cũng là một thiếu sót của giới nghiên cứu khi nghiên cứu về TT và T.T.Kh.
Sự nghi ngờ Hoài Việt “úm ba la” ra bài thơ này là không có. Chú Nguyễn Tuấn Khoa khẳng định, cô Oanh – em ruột bố TT – đã đọc bài thơ này ngay trước mắt chú. Còn chỉ mỗi bà Oanh nhưng bà cũng đi về nơi xa… Bà nhớ bài của ai? Hoặc bút hiệu Trăm Năm khi đăng trên “Tiểu Thuyết Ba Xu” của Trường Xuân như theo lời Hoài Việt ghi lại là ai chứ không phải TT? Bài thơ này, đã “giết” chết chữ “Nhân” mà cha mẹ TT đã dạy từ nhỏ, “bứng” trốc rễ luôn chữ Tình mà TT trân trọng khi nếm được lúc thanh niên và bay tuốt luốt mầm mống thi ca của TT chứ đừng nói là mở đầu cho một tài năng như Hoài Việt ghi nhận: “Đây là một bài thơ tình phảng phất nỗi buồn man mác nhưng cũng báo hiệu nhiều nét tài hoa của một thi sĩ tương lai”.
Bài thơ này, được loại bỏ tại đây khi mang danh nghĩa “Bài thơ đầu tiên” của TT.
Bài thứ tư: Bản của MGL (Thơ Thâm Tâm, sđd):
Các anh
Các anh hãy chuốc thật say,
Cho tôi những cốc rượu đầy, rồi im
Giờ hình như quá nửa đêm,
Lòng đau, đau lại cái tim cuối mùa
Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi!
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến, đã rời rã đi
Tâm tình lạnh nhạt, đâu nghe
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch chiều?
Giờ hình như gió thổi nhiều
Những loài hoa máu đã giao nốt đời
Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi,
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh.
Sá chi những truyện tâm tình
Lòng đau đem chữa trong bình rượu cay…
1940
Nguồn:
MGL: “Ghi thêm về Thâm Tâm và T.T.KH.” (T.T.KH nàng là ai?, Thế Nhật, 1994, sđd tr 118-123; T.T.KH nàng là ai?- 2000 tr 78-81 – Văn nghệ, số 13/3/1990): “Bài Các anh trong tập Thơ Thâm Tâm chỉ có 16 câu (4 khổ) lấy trọn vẹn từ báo Tiểu thuyết thứ bảy ngày 4-5-1940. Hoàng Tiến nghe đâu mà bảo đó chỉ là trích đoạn. Chắc anh tin vào ai đó đã đưa in trên Văn nghệ và nói rằng đây là bài thơ của Thâm Tâm, không có đề, mà ở đây thực ra mở đầu là 8 câu trên và kết thúc là 8 câu sau của bài Các anh, còn ở giữa là 56 câu khác không ăn nhập gì với kết cấu toàn bài. Vẫn bài thơ dài này cộng cả 64 câu, ông Nguyễn Tấn Long trong Việt Nam thi nhân tiền chiến in ở Sài Gòn năm 1968 lại đặt tên là Gửi T.T.Kh. Có lẽ cũng nghe ai nói rồi ghi lại…”
Trong lần tái bản cuốn VNTNTC, NTL đã đổi bài này thành “Các anh” như chúng ta đã đọc ở trên. Tác giả nào cũng lấy “nguồn nghe” và “nguồn sao chép” đúng hơn “nguồn gốc”!
Hoài Anh: “Thơ T.T.KH Sự Thật Hay Huyền Thoại?” (thanhtung.com) bổ sung thêm: Số báo là 307 như NTL đã cung cấp. Hoài Anh cũng lấy từ nguồn nào trong 3 nguồn nói trên khi ghi: “Lòng đau đau lại cái tin cuối mùa”?
Thế Nhật với cuốn “T.T.KH nàng là ai?”, khác: “Lòng đau đau lại cái tim cuối mùa”. Nguồn ở đâu?
NTK với “Về những kỷ niệm quê hương” dẫn bài Thanh Châu “Nói thêm về T.T.KH” đều ghi không khớp bài thơ này: “Lòng đau đưa lại cái tin cuối mùa”.
Lựa chọn?
Bốn câu thơ này đứng về góc độ phân tích sẽ khác nghĩa: Câu thứ nhất đau vì nỗi đau tự phát. Câu thứ nhì đau vì nỗi đau từ tin ngoài đưa vào nhưng từ ngữ chưa trong sáng với nghĩa đau, rồi cái đau đó “đưa lại cái tin” chứ không phải cái tin đó đưa lại cái đau. Câu thứ ba đau thêm vì nỗi đau bị xé ra vì cái tin cuối mùa. Tin cuối mùa cũng vô nghĩa vì chẳng hiểu ám chỉ mùa nào? Ý nghĩa gì? (có lẽ cuối mùa thu qua câu “tiếng mùa lá chết” chăng?). Câu thứ tư càng không rõ. Ta chọn cách nào cho bài thơ hợp với hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ? Chọn câu thứ nhất vì nỗi đau này đã âm ĩ trong tim từ lâu. Người trong cuộc chẳng thể vì cái tin đồn nào mới đau lại. “Lòng đau, đau lại” hàm ý đau tới hai lần: Đau vì tình duyên vỡ lở hôm trước. Đau vì tình duyên được nhắc lại hôm nay. “Tim cuối mùa” chính là trái tim đã sắp chết. Dù TT hay người nào đó làm, chọn câu thứ nhất là câu có ý nghĩa cao nhất đưa nội dung bài thơ có ý nghĩa hơn. Trừ trường hợp bài này đã đăng trên TTTB thật sự, chúng ta nên giữ nguyên văn từng dấu chấm phẩy cũng như từ địa phương hay ngữ pháp.
Hoài Anh, NTL ghi: “Tiếng xe đã nghiến đường rời rã đi“.
Thế Nhật và NTK chép: “Tiếng xe đã nghiến, đã rời rã đi” như bản của MGL. Lẽ ra, câu đúng phải là “bánh xe đã nghiến” chứ chẳng thể nào “tiếng xe nghiến”. Nghiến răng thì họa may. Tiếng xe phát ra âm thanh sao nghiến được chứ? Thôi cứ tạm chấp nhận thơ có lúc mù mờ như từng chấp nhận bỗng không có “con nai vàng ngơ ngác đạp đám lá vàng khô” chạy ra cho Lưu Trọng Lư làm thơ! Mà nghiến cái gì? Tất nhiên, phải nghiến xuống đường. Câu Hoài Anh, NTL ghi đầy đủ ý nghĩa hơn và cần cho thêm dấu phẩy tách động từ “nghiến” với cụm động tính từ “rời rã đi“, thành: “Tiếng xe đã nghiến đường, rời rã đi”. Thế nhưng, theo giá trị biểu cảm của thơ, “Tiếng xe đã nghiến, đã rời rã đi” hay hơn.
“Các anh trút nốt âm thừa đi thôi” (Thế Nhật giống NTL) so với: “Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi” của các bản còn lại nói trên, ta dễ dàng không chọn câu trong sách Thế Nhật và NTL. Âm thanh phát ra không có dạng thể chất (đặc, lỏng) mà là thể khí (hơi, âm) nên không dùng động từ “trút” như trút lúa, thóc giống được. Nhưng ta có thể nói “trút nỗi buồn thương vào giấy mực” hay “trút nỗi niềm riêng xuống đáy mồ“. Ví dụ trong văn: “Hội nghị sẽ họp trong 4 ngày, bàn về các giải pháp để tìm chỗ “trút nỗi buồn” cho gần nửa dân số thế giới” (hanoimoi.com.vn). Trong thơ: “Chọn ghế qùy trong bóng tối ngập tràn. Mở lòng trút mọi nỗi niềm cay đắng” (Mai Qùy, members.cox.net). Ta có thể thấy trong nhạc hình ảnh “cây trút lá” trong “Rừng cây trút lá” của Trịnh Công Sơn hay “Cây trút lá cuốn theo chiều mây” trong “Đêm đông” của Nguyễn Văn Thương.
Bởi vì, nỗi buồn, niềm riêng không thuộc dạng thể chất hay thể khí được ẩn dụ tu từ hóa thành khối lượng lỏng, còn lá cây thuộc hình thể có dung lượng, cân nặng… tha hồ trút đâu cũng hợp lý, hợp tình, hợp khoa học.
Hoài Anh ghi: “Tâm tình anh lạnh đâu nghe“, các vị trên chép: “Tâm tình lạnh nhạt đâu nghe”. Bản của MGL có dấu tách câu như bài trên.
NTL lại khác: “Tâm hồn lạnh nhạt đêm nghe”. Ta chọn câu Hoài Anh để cho dư vị một cuộc tình đã vỡ lở không bị cái từ “lạnh nhạt” thiếu… quân tử kia… đào huyệt. Nhưng bài thơ tự nhiên nổi lên đại từ ngôi thứ hai “anh” như thể nhân vật đang nói với người con gái hay người nào nhỏ tuổi hơn mà toàn bài thì rõ ràng, nhân vật này đang nói với “các anh“! Từ “anh” trong bản Hoài Anh đâm ra dư thừa, không hợp nghĩa. Từ “anh” này, bỏ xuống cho bài thơ chắp vá dài 64 câu nói với nhân vật Khánh thì hợp hơn. Vậy thì, ta buộc phải lấy câu “Tâm tình lạnh nhạt, đâu nghe” với nghĩa: Lòng tôi lạnh nhạt, không cần nghe những “âm thừa” của các anh nữa!
MGL ghi: “Những loài hoa máu đã giao nốt đời” lại đụng các bản khác: “gieo nốt đời“. Từ “gieo nốt” có tính nhân hóa rất hay. Gieo nỗi buồn thành nốt nhạc! So với “giao nốt” nghĩa các nốt nhạc buồn giao lại với nhau? Nghĩa thứ nhất. Tạo ra nghĩa gì đây? “Các loài hoa máu đã giao” hết trọi cho đời? Nghĩa thứ hai. Từ “nốt‘ có hai nghĩa: Nốt nhạc và Hết, Không còn gì!
Thế Nhật ghi theo MGL,
NTL qua bài Thanh Châu: “Lòng đau đem chữa trong bình rượu cay”. Sách NTK cũng ghi từ Thanh Châu chép theo MGL giống Hoài Anh: “Lòng đau đem chứa trong bình rượu cay”. Nhiều bản khác copy chung: “Lòng đau đem giấu trong bình rượu cay”. Chọn câu nào? Theo giá trị thẩm mỹ câu thơ, câu hai nghe êm tai hơn. Nhưng giá trị nội dung thì câu một sâu sắc hơn. Lòng đau mới đem chữa. Giống như có bệnh thì đi bác sĩ. Lòng đau còn đem đi chỗ khác chứa đựng thì bệnh không thể thuyên, đau không thể giảm. Câu thứ ba hợp cách hơn. Đau thì nén. Nén thì phải giấu. “Nam vô tửu như kỳ vô phong“. Thế nhưng, “Nhất túy giải vạn sầu” mà sầu vẫn sầu theo Lý Bạch là đây! Xưa nay, “nhi nữ thường tình, anh hùng khí đoản“! Ai mà không giấu nỗi sầu vào “ba chung lếu láo“? Vậy, câu “Lòng đau đem giấu trong bình rượu cay” hay hơn với thêm ba chấm lửng(…) kéo dài lòng đau như… toa xe lửa đến cùng trời cuối đất!
Cùng một tác giả, hai bài viết khác nhau, đăng bài “Các anh” cũng… khác luôn. Thế Nhật trong “T.T.KH nàng là ai” trích bài thơ này của TT: “CÁC ANH” trong khi cũng trong sách mình, cuốn “Lược sử văn nghệ Việt Nam- Nhà văn tiền chiến 1930-1945, Nxb Vàng Son Sài Gòn – 1974 (newvietart.com), Thế Phong ghi: “CÁC ANH HÃY UỐNG THẬT SAY” với 8 câu đầu đã khác nhau như thế này: thực say/thật say; đau lại/đem lại; trút nốt/tắt nốt; nghiến đường/nghiến, rời; im đi/ vui lên; xê dịch chiều/ xê dịch nhiều; gió thổi nhiều/ gió thổi đều; vội gieo/ đã gieo; bao nhiêu nghệ sĩ/ tâm hồn nghệ sĩ; mong manh, mỏng manh; đem chữa/ đem chứa… ghi năm 1938/ không ghi năm. Độc giả sẽ bỏ dấu hỏi là Thế Phong lấy 2 bài thơ này từ nguồn nào mà từ ngữ khác nhau như thế? Lỗi từ người đánh máy chăng? Tại sao không hiệu đính lại để văn bản thống nhất?
Thời gian ghi cũng chênh lệch 2 năm so với bản MGL (1940) và NTL (TTTB số 307, 4-5-1940). Vậy, ít nhất, các tác giả đã đọc từ rất nhiều “nguồn ma” khác nhau. Không lẽ, nguồn tư liệu từ TTTB của mỗi tác giả trên lại khác? Độc giả chưa tới ngày Halloween mà cũng bị… nhát ma!
Trường hợp nếu các tác giả tìm được nguồn TTTB, chính mắt đọc được những bài thơ đã in này thì hãy cho độc giả rõ. Bằng như ghi chép lại của người khác, sách khác, chúng ta buộc phải ghi nguồn từ người đó, sách đó. Nếu không, thông tin của chúng ta sẽ không có “bảo chứng” giá trị văn học. Trường hợp MGL, Hoài Anh hay Thanh Châu, hoặc người ghi lại như Thế Nhật, NTK thiếu hẳn nguồn tư liệu chính xác. Ngay cả HT – HC khi lấy TBH của TT cũng chỉ ghi là “rút ở tập Thơ Thâm Tâm chưa xuất bản“. Tập thơ này do ai chọn lựa và người đó căn cứ vào tư liệu nào? Ở đâu? Những bài thơ đó của TT dĩ nhiên là bản viết tay, hoặc đăng báo thì cũng phải cho thiên hạ được “thanh thiên bạch nhật” chứ?
Vậy, với những người thích nghiên cứu, việc tưởng đơn giản nhưng rất quan trọng, đó là “nguồn tư liệu“. Chúng phải được ghi rõ ràng, chính xác vì chúng là xâu chìa khóa để mở tất cả các cánh cửa văn học thông ra thế giới bên ngoài khi không còn nhân chứng sống trên đời. Khi đã trích nguồn từ người nào, sách nào thì người đó, sách đó chịu trách nhiệm pháp lý. Trường hợp, “nguồn ma” ví dụ như ta cứ nói trích từ TTTB, Số? Ngày? thì ta cũng phải ghi rõ mình lấy từ web nào, sách nào, bài nào ghi “nguồn ma” này!
- Nội dung: Theo âm điệu của bài thơ, chúng ta thấy rõ rằng, TT rất bực mình về “các anh” – những người bạn. Vì sao TT có thái độ cáu lên như thế trong ngữ “tắt nốt âm thừa đi thôi“? Chính những “âm thừa” (nhiều chuyện, bẻm mép, bịa đặt… ) đã từ một Thâm Tâm giả với những ngôn từ tầm thường “K hỡi! Người yêu của tôi ơi” trong “Màu máu Tigôn“, “Khánh ơi! Khánh hỡi!” trong “Các anh” (chỉ 48 câu). TT làm thì sao TT nổi điên với chính TT khi bắt “các anh” cũng chính là TT “câm miệng” lại? Không làm mà bị oan mới nổi điên lên chứ? “Các anh hãy uống cho đã đời đi. Hãy chuốc rượu cho tôi thật nhiều rồi câm miệng lại hết dùm tôi được không? Đã quá khuya rồi còn lắm chuyện! Khơi lại niềm đau trong tim héo của tôi để làm chi? Lòng tôi đã đau lắm, đã lạnh nhạt rồi, tôi chẳng thể nào nghe được chuyện loài hoa máu nữa. Bao nhiêu nghệ sĩ đau khổ, há riêng gì mình tôi. Sá chi những chuyện buồn phiền ấy. Tôi đã mượn rượu giải sầu không thấy hay sao hả?”. TT quát lên bằng giọng… Thơ! Nhưng có phải TT làm không? Ta thấy rằng, ngôn ngữ thơ chính là chìa khóa giải mã một thi pháp của một tác giả. Vì sao, ta nói NB là chân quê, gã thi sĩ lãng mạn? Vì sao ta cho Xuân Diệu là gã si tình? Vì sao khi nhận xét về thơ THT, HT – HC cảm thấy: “Thơ Trần Huyền Trân không xuất sắc lắm. Nhưng sau khi đọc hoài những câu rặt anh anh, em em, tôi đã tìm thấy cái thú của người đi đổi gió” (sđd, tr 363). Ngôn ngữ, ngôn từ đã nói đấy! Vậy, bài thơ này, có gì đặc biệt trong ngôn ngữ? Ta thấy những từ được dùng “im” trong “Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im” bài này giống như câu “Tôi run sợ viết, lặng im nghe” hay “Nếu không im được thì tôi chết” của thơ T.T.Kh. Cả bài dài 64 câu thì lại có thêm: “Lặng im tôi viết bài thơ trả lời”. Bản khác cũng chép “Hãy im đi các anh ơi“.
Một từ khác: “âm thừa” trong câu “Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi“. Giống như “giọt lệ thừa” (dòng dư lệ) trong: “Giận anh, em viết dòng dư lệ”, “Cho tôi ép nốt dòng dư lệ” của T.T.Kh. Cả hai bài thơ đều cùng tâm trạng đau lại vết thương lòng đã cũ. Nhưng việc sử dụng ngôn từ chung như vậy, ít thấy đối với hai tác giả khác nhau. Hai bài thơ này, nếu không có bản gốc để đối chiếu, thì cũng vẫn nghi vấn là từ một tác giả mà thôi! Vậy trong ba bản, bản nào là bản thật? Có ai dám khẳng định không? Không ai dám lên tiếng, ta sẽ phải chọn bản cũ nhất, tức là bản của Thế Phong năm 1974 trong sách đã dẫn trên. Thế Phong lại có 2 bản khác nhau (1974 và 1994) nên nguồn tư liệu chưa được tính nghiêm túc (chưa nói chính xác) bằng bản MGL năm 1988. Thế nhưng, bản của NTL dài hơn và chú thích đã đăng trên TTTB:
Các anh
Gửi T.T.Kh
Các anh hãy uống thật say,
Cho tôi uống những cốc đầy rồi im
Giờ hình như quá nửa đêm,
Lòng đau mang lại cái tin cuối mùa.
Hơi đàn buồn như trời mưa,
Các anh trút nốt âm thừa đi thôi.
Giờ hình như ở ngoài trời,
Tiếng xe đã nghiến đường rời rã đi.
*
Hồn tôi lơ mờ sương khuya,
Bởi chưng tôi viết bài thơ trả lời.
Vâng, tôi biết có một người,
Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng.
Để hôm sau khóc trong lòng,
Vâng, tôi biết lắm cánh đồng thời gian.
Hôm qua gặt hết lúa vàng,
Và tôi lỡ chuyến chiều tàn về không.
Vết xe trong vệt bụi hồng,
Tôi đi rồi lại nhúng trong khói mờ.
Vết xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có mấy bài thơ trở về,
Tiếng xe mở lối vu qui
Hay là tiếng cắt nàng chia cuộc đời!
Miệng chồng Khánh gắn trên môi,
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ,
Đàn xưa từ chia đường tơ,
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan.
Kéo dài một chiếc áo lam,
Vì dây đã dứt nàng càng nối dây.
Nàng còn cởi mãi trên tay,
Vì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
Góp hai thứ tóc trên đầu,
Bao giờ đan nổi những câu tâm tình?
Khánh ơi! Còn hỏi gì anh?
Lá rơi đã hết mùa xanh mùa vàng.
Chỉ kêu những tiếng thu tàn,
Tình ta đã hết anh càng muốn xa.
Chiều tàn chiều tắt chiều tà,
Ngày mai ngày mốt đều là ngày nay,
Em quên mất lối chim bay,
Và em sẽ chán trông mây trông mù.
Đoàn viên từng phút, từng giờ,
Đời yên lặng thế em chờ gì hơn,
Từng năm từng đứa con son,
Mím môi vá kín vết thương lại lành.
Khánh ơi! Còn đợi gì anh?
Xưa tình đã lỡ nay tình lại nguyên.
Em về đan nốt tơ duyên,
Vào tà áo mới đừng tìm mối xưa.
Bao nhiêu hạt lệ còn thừa,
Hãy dành mà khóc những giờ vị vong.
Bao nhiêu nương cánh hoa lòng
Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng hồn cha.
Nhắc làm chi chuyện đời ta
Bản thân anh đã phong ba dập vùi…
*
Hãy im đi, các anh ơi
Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về.
Tâm hồn lạnh nhạt đêm nghe,
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch chiều.
Giờ hình như gió thổi nhiều,
Những loài hoa máu vội gieo nốt đời.
Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi,
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh,
Sá chi những truyện tâm tình,
Lòng đau đem chữa trong bình rượu cay!
(Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 307, 4-5-1940)
Nghi hoặc: Cắt đầu 8 câu và đuôi 8 câu thì thành bài thơ “Các anh” như MGL tuyển vào sách. Để nguyên 64 câu trên thì thành bài “Các anh”, “Gửi T.T.Kh”, “Trả lời của người yêu” như trên hay “Các anh hãy uống thật say” bản của Thế Phong còn 54 câu. Lại không biết các vị “thánh thủ thần thâu” này “chôm” từ đâu ra các bài chẳng thống nhất về từ ngữ đã đành, mà chẳng ăn khớp số câu đã chỉ ra ở trên?
Nếu TT làm bài này, anh “nổi điên” với chính anh hay sao? “Gậy ông đập lưng ông”?. Có điều, nếu MGL cho rằng bài “Các anh” chỉ có 16 câu, 4 đoạn, còn 48 câu giữa là của bài “Trả lời của người yêu” hay “Gửi T.T.Kh” thì ta thấy có hai câu sau đây “nghẽn đường”:
Hãy vui lên các anh ơi
Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về.
Bỏ nó vào “Gửi T.T.KH” thì nó… hú lên “các anh ơi!”. Nó nói rằng nó phải nằm trong bài “Các anh” mới đúng! Nếu bỏ nó trong “Các anh” thì “Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về” rú lên phàn nàn rằng phải bỏ nó trong “Gửi T.T.KH” mới trúng… chuồng! Hai câu thơ này nối nội dung hai bài “Các anh” và “Trả lời của người yêu” tức “Gửi T.T.KH” lại với nhau. Cho nên, muốn tách ra khỏi nàng Khánh như MGL cũng không xong.
Điều này không khó hiểu khi Thanh Châu lên tiếng trong “Nói thêm về T.T.KH.” khi thành phần xuất thân của đứa con TT không mấy rõ ràng từ MGL “Cũng may, với sự nghi ngờ: “Có thể hai bài thơ trên là ‘thơ dỏm’ lời thơ thô vụng, không chắc của Thâm Tâm, tôi đã tìm đến ông Phạm Quang Hòa, nghe nói ông trước kia có làm thơ, và quen thân với Thâm Tâm, còn giữ được nhiều thơ cũ. Ông Phạm Quang Hòa đã chép cho tôi một bài giống như bài ‘Các anh’ nói trên. Nhưng theo ông Phạm Quang Hòa thì đây là bài thơ Thâm Tâm trả lời T.T.Kh. sau khi có ‘Bài thơ cuối cùng’ của T.T.Kh. đăng báo Tiểu thuyết thứ bảy (?). Bây giờ xem lại thì bài này dài gấp mấy lần bài ‘Các anh’. Chỉ đúng có 8 câu đầu là của bài ‘Các anh’ tiếp theo còn 47 câu thì bỏ, để lại bắt vào đoạn cuối của bài ‘Các anh’ với 7 câu kết (như trong bài Các anh). Vậy thì Mã Giang Lân đã lấy ở đâu ra bài ‘Các anh’ (đã in ở sách “Thơ Thâm Tâm” nhà xuất bản Văn Học – 1988)? Với vẻn vẹn có 16 câu? Nếu trích ở đâu sao không nói rõ?
Về ông Phạm Quang Hòa, ta có thể tin ông là bạn thân của Thâm Tâm, nên mới có ‘Bài thơ trả lời T.T.Kh.’ của Thâm Tâm mà ông giữ được đến nay… “. (Về những kỷ niệm quê hương, sđd tr 174 – 175).
Phạm Quang Hòa hay Lương Trúc đều cung cấp thông tin chưa có bảo chứng. Ông thuộc chăng? Không tin. Ông chép lại? Chép ở đâu? Thanh Châu chỉ trích MGL hơi gay gắt nhưng bản thân Phạm Quang Hòa cung cấp thông tin bài thơ từ “nguồn miệng” thì sao bằng nguồn TTTB của MGL?
Thắc mắc này, MGL trên báo “Văn nghệ, số 13 tháng 3-90” (Thế Nhật, sđd tr 121) đã trả lời cùng với thắc mắc của Hoàng Tiến: “Vẫn bài thơ dài này cộng cả 64 câu, ông Nguyễn Tấn Long trong Việt Nam thi nhân tiền chiến in ở Sài Gòn năm 1968 lại đặt tên là Gửi T.T.Kh. Có lẽ cũng nghe ai nói rồi ghi lại”.
Thanh Châu có nhầm không, chứ 8 câu đầu cộng 7 câu sau (bỏ 47 câu) thì sao ra 16 câu mà bài “Các anh” đang có? 8+7= 16???
Nhưng, MGL cũng… lẫn nốt khi khẳng định: “Thực ra mở đầu là 8 câu trên và kết thúc là 8 câu sau của bài ‘Các anh’, còn ở giữa là 56 câu khác không ăn nhập gì với kết cấu toàn bài…”. Theo MGL: 8+56+8 = 72. Thế nhưng, bài thơ dài này đếm tới, đếm lui tối thui cả mắt cũng chỉ có 64 câu chứ đâu tới 72 câu? Hai câu “nghẽn bản họng” đó, bỏ ra không được mà lấy vào cũng không xong. Nếu muốn mỗi bài mỗi vẻ, mười phân… khác mười, thì hai câu này phải được… rứt ra chia đôi:
Câu “Hãy vui lên các anh ơi!” hoặc “Hãy im đi các anh ơi” trả về cho “Các anh” thì bài thơ “Các anh” thành 17 câu. Câu “Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về” giữ nguyên trong “Gửi T.T.KH” thì bài đó còn 47 câu. Hai bài thơ “què cụt” ở mỗi câu lục bát: “Các anh” thì thiếu câu 8. “Gửi T.T.KH” hay “Trả lời của người yêu” thì thiếu câu 6. Thơ lục bát gì kỳ cục vậy? Chắc là ném vào thơ lục… cơm nguội thời hậu hiện đại quá! Bác sĩ mổ tách ca song sinh khác trứng, cũng nên cẩn thận hiện tượng dính lồng ngực này!
Bài thơ có mấy câu?
- Theo NTL bài thơ này có 64 câu.
- Nhưng trong hai cuốn sách của Thế Nhật cũng khác luôn:
+ “Lược sử văn nghệ” (sđd) chỉ có 54 câu.
+ “T.T.KH nàng là ai?” (Nxb VH-TT – 1994) tr 89-90-91 còn 62 câu. Những câu khác xa cơ bản đáng sợ trong 2 bản một tác giả Thế Phong như: “Hôm qua rụng hết lá vàng/ Hôm qua gặt hết lúa vàng“. Câu quan trọng nối kết hai bài thơ đã bị biến dạng:
Hãy vui lên các anh ơi!
Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về.
Tâm hồn lạnh nhạt đê mê,
Câu: “Hãy vui lên các anh ơi” (từ “Lược sử văn nghệ“) được đổi thành: “Hãy im đi, các anh ơi“. Chắc ai đó sửa lại cho phù hợp… ý mình??! Hai câu tiếp bị cắt bỏ không lý do. Nhưng đã chọn thì chọn luôn “Hãy im đi, các anh ơi” mới hợp nỗi bực mình từ đầu của tác giả: “Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi“! Nhưng thơ người khác chứ đâu phải thơ mình mà cứ chọn đi, chọn lại? Thơ cần bản gốc là vậy.
Bản Thế Phong còn mất một đoạn 10 câu sau:
Khánh ơi, còn hỏi gì anh?
Lá rơi đã hết màu xanh màu vàng.
Chỉ kêu những tiếng thu tàn,
Tình ta đã chết anh càng muốn xa.
Chiều tan, chiều tắt, chiều tà,
Ngày mai, ngày mốt vẫn là ngày nay.
Em quên mất lối chim bay,
Và em sẽ chán trông mây trông mờ.
Đoàn viên từng phút từng giờ,
Sóng yên lặng thế em chờ gì hơn?
- Kết luận sơ bộ:
Hai đứa con song sinh dính lồng ngực này, TT… không thể làm, chẳng thể… đẻ. Đoạn trên bảo các anh im hết đi! Đoạn cuối đốc thúc các anh vui lên đi! Mâu thuẫn nội tâm điên rồ có khác? Bảo người ta im xong thì mình lại lôi ra một lô, một lốc về cô Khánh mà réo ầm ĩ, kể lể đủ điều, rên xiết muôn lối. Khi xưng tôi với các anh, khi xưng anh với Khánh. Khủng hoảng tinh thần! Khác với một bút pháp rất trầm tĩnh nhưng rất tình cảm trong các bài thơ của TT cùng thời gian, cùng tâm trạng. Thế nhưng… “Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã. Lâm nguy vô cứu mạc anh hùng”!
Có người khác đứng cùng tuyến của TT làm ra… đẻ ra được không? Người này là ai? Nội một trời “dị bản” từ ngữ trong 16 câu thôi: (thật – thực; cho tôi uống – cho tôi những; lòng đau đau lại – lòng đau đem lại; tựa trời mưa – như trời mưa; giờ hình như đã tối rồi – giờ hình như ở ngoài trời; tâm tình lạnh nhạt đâu nghe – tâm tình lạnh nhạt đê mê; sá chi – sái chi, đem chứa – đem chữa- đem giấu… ) cũng đủ… choáng váng mặt mày người nghiên cứu huống chi dị bản cả bài!
Bài này được ai đó làm (sau khi ĐACC ký T.T.Kh ra đời) có những câu… thật chẳng là đàn ông tốt:
Vâng, tôi biết có một người,
Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng.
Để hôm sau khóc trong lòng̣,
Vâng, tôi biết lắm cánh đồng thời gian.
Miệng chồng Khánh gắn lên môi,
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ,
Đàn xưa từng chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan.
Khánh ơi! Còn đợi gì anh
Xưa tình đã lỡ nay tình lại nguyên
T.T.Kh là cô Khánh? (theo Hoàng Tiến với bài “T.T.KH là ai? và Anh Đào với thiên hồi ký trên báo Nhân Loại của ông, thanhtung.com, in trong sách Hoài Việt và NTL, sđd).
Bởi chính vì bài thơ này đã nêu đích danh cái tên ”Khánh” nên đây chẳng phải là bài thơ ”tưởng tượng” và nó không ”đụng hàng” với một cuộc tình chung chung nào. Nhưng khi đã cho T.T.Kh là Khánh thì ta cần xem xét ngôn ngữ, ý tứ mà người ký TT này dùng cho ”người yêu” có mặn mòi như T.T.Kh đã viết cho ”người ấy” TT không? Ráp bài này lại với những bài T.T.Kh ký, thằng chồng nào ngu mà không biết họ đang nói về mình là một kẻ thừa bên lề yêu đương?
Trong lịch sử văn học ngoại trừ những tác phẩm văn xuôi, dòng thơ trữ tình chưa có câu thơ nào đầy “lục dục thất tình” như câu:
Miệng chồng Khánh gắn lên môi,
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ
Người đọc nào có một chút tự trọng mà không thấy ghê ghê. Lại những câu miêu tả bề nổi. TT làm đấy sao? Cười tình cũ đã cạn ngày, cạn tháng!
Thơ lãng mạn, ”Thơ Mới” thời ấy mang bi kịch cả thực và mộng đều lẫn lộn mênh mông, miêu tả ngoại cảnh là chính để bày tỏ nỗi lòng. Kẻ này đi miêu tả cái thực “lột da”. Xem ra, đó cũng là sự “đột phá” của kẻ “phá giới”. Chỉ tội nghiệp cho hai kẻ trong cuộc, dẫu biết tỏng tòng tong thiên thiên hạ “chơi xỏ” mình nhưng đành ngậm bồn hòn làm thinh. Phản ứng có mà chết chùm! Kẻ ngoài cuộc mỉa mai hả hê. Người thơ ở trong giang hồ nửa đường đã thấy bất bình nên tức giận dùm như Xuân Tâm Phan Hạp:
Ôi khốn nạn! Ôi điên rồ! Giận tức
Đuổi mau đi xác thịt, đuổi đi.
Vậy mà người ta chấp nhận được cái tả “da thịt” của Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương…
TT làm gì mà tệ đến cực ác vậy khi đã viết những câu phơi con cá trên còn bồi thêm những câu… phanh thây con cá ra nữa:
Bao nhiêu hạt lệ còn thừa
Dành ngày sau khóc những giờ vị vong.
Bao nhiêu những cánh hoa lòng
Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng hồn cha.
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh
Sá chi những chuyện tâm tình …
“Trả lời cuả người yêu” tức “Các anh” là tảng nước đá đập vào trái tim ấm áp yêu thương của ai kia, là cái quay gót 180 độ với người yêu cũ, là bản án tử hình cho hạnh phúc người yêu của mình.
Thử hỏi con người như TT sống trên đường đời mới qua có một nửa chưa đủ ”thâm niên” để dùng thủ đoạn hại người. TT đã từng lăn lộn giữa cuộc đời cùng khổ, kiếm miếng cơm manh áo đã cực, được một chút tình thì càng ôm ấp, nâng niu với từng kỷ niệm sao có thể là một kẻ hai mặt, hai lòng?
Tổ hợp thơ TT và T.TKh không biết chính xác bao nhiêu dị bản nhưng những nhà nghiên cứu tên tuổi đã “góp phần” làm cho “dị bản” thơ TT càng ngày “phong phú” đáng “nể”!
Nhận xét: Bản của NTL so với các bản khác của Thế Phong trong “Lược sử văn nghệ” (sđd, web đd), hay các bản khác đều khác nhau xa về từ, về câu: cho tôi những cốc/ cho tôi uống những; uống/chuốc; buồn tựa/buồn như; lơ mờ/lờ mờ; bởi chưng tôi viết/hờ rung tôi viết; có một người/biết có người; ở ngoài trời/đã tối rồi; biết lắm/ gặt hết lúa vàng/rụng hết lá vàng; tiếng xe/vết xe; tôi đi rồi lại nhúng trong khói mờ/ nàng đi rồi lại nhúng trong khói mờ; vì dây đã dứt và càng nối dây/ tơ càng đứt mối, nàng càng kéo giay; cởi mãi trên tay, gỡ mãi trên tay; thay đổi màu/thay hẳn màu; góp hai thứ tóc/chung hai thứ tóc; hôm nay/hôm qua, tiếng khóc/tiếng cắt, từ ngày đàn chia/ đàn xưa từ chia, áo len/áo lam, nối dây/kéo giay, trên đầu/đôi đầu, sao còn chắp nối/bao giờ đan nổi; câu tâm tình/câu ân tình; đều là/vẫn là; mùa xanh mùa vàng/màu xanh màu vàng; sẽ ngán trông mây trong mù/ sẽ chán trong mây trông mờ; Khánh ơi! Còn đợi gì anh/ Khánh ơi còn hỏi gì anh; xưa tình đã vỡ/ ái tình đã vỡ; hãy dành mà khóc/dành ngày sau khóc; nương cánh/những cánh; bản thân/bản năng; hãy im đi/hãy vui lên; lạnh nhạt đêm nghe/lạnh nhạt đê mê; vội gieo/vội giao; lòng đau đem chữa/lòng đau đem chứa; con non/con son; mỉm cười/mím môi; dù vỡ/đã vỡ; đan mối/đan nốt; duyên xưa/mối xưa; hy vọng/hạt lệ; hương cánh hoa/những cánh hoa; đêm nghe/đê mê; tiếng mưa/tiếng mùa; xê dịch nhiều/xê dịch chiều; gió thổi đều/gió thổi nhiều; mỏng manh/mong manh, xá chi/sái chi; đem chứa/đau chứa…
Một bài thơ ngần ấy dị bản “kinh dị” (như bài “Giải triều” đầy dị bản được cho là của Nguyễn Văn Tường) phải là một tác phẩm văn học chăng?
Bố cục bài thơ được NTL cung cấp gồm 3 đoạn rõ. Hai đoạn đầu và giữa không nhắc tới tên Khánh.
Đoạn đầu 8 câu nổi điên: uống rồi im đi, trút hết âm thừa rồi câm đi.
Đoạn giữa chơi… trội hơn réo cúng cơm tên Khánh 4 lần cùng khẳng định T.T.Kh là “nàng” chứ không phải “đực rựa”. Bài thơ dài này có gọi đích danh tên Khánh và nói rõ là T.T.Kh chính là Khánh “nàng đi có bốn bài thơ trở về”. Giọng thơ của một kẻ “trên cơ” chứ không phải bị…bồ đá như bò báng bể bụng: “vâng, cố tưởng tôi là chồng, khóc trong lòng, miệng chồng Khánh gắn môi Khánh hay miệng chồng, Khánh… “hiếp dâm” gắn môi mình? vì không bỏ dấu, hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ, sao tôi không biết, còn hỏi gì anh, anh càng muốn xa, đợi gì anh, đan nốt tơ duyên, bao nhiêu hạt lệ còn thừa/ hãy dành mà khóc những giờ vị vong… bao nhiêu nương cánh hoa lòng, hãy dâng cho trọn nghĩa chồng hồn cha, nhắc làm chi… như “chửi cha” đứa nào bỏ tao rồi kêu réo tao, muốn quay lại phải không? Xưa rồi… Diễm!
Tiếp theo, TT lại chì chiết người yêu cũ: “Góp hai thứ tóc trên đầu. Bao giờ đan nổi những câu ân tình” có khác nào mắng Khánh “già hai thứ tóc còn ngu“? TT “mỉa mai”: “đoàn viên” với chồng rồi “chờ gì hơn“, “từng năm từng đứa con son” khác nào hắn bảo nàng là dòng họ “gà” còn gì hơn? “Mỉm cười vá kín vết thương lại lành, xưa tình đã lỡ nay tình lại nguyên” là sao? Y như Mã Giám Sinh nghĩ cách “hớt tay trơn” Tú Bà khi lừa hái hoa Thúy Kiều mà chẳng “thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương” với những ngón làng chơi lừa lọc:
Dưới trần mấy mặt làng chơi,
Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa .
Nước vỏ lựu máu mào gà,
Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.
Mập mờ đánh lận con đen
TT đay nghiến: “Bao nhiêu hạt lệ còn thừa, để dành mà khóc những giờ vị vong… “. “Dòng dư lệ” này ai hay dùng? T.T.Kh từng dùng: “Cho tôi ép nốt dòng dư lệ. Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên” trong BTTN. NB dùng nó với nghĩa “nước mắt thừa, nước mắt cạn” trong “Dòng dư lệ“:
Tặng người gọi một vần thơ
Hay là dòng nước mắt thừa đêm qua.
Hay:
Cạn dòng nước mắt còn đâu khóc người.
Đoạn cuối: Yêu cầu “các anh” “im đi” tiếp. Rồi TT nào có chịu “im” như “các anh”. Rượu vào lời ra. Kể lể linh tinh: Nàng đi tôi gọi hồn tôi trở về! Khác hẳn Kim Trọng lập đàn “chiêu hồn” sống Kiều bên sông Tiền Đường!
Người thuộc Kiều và vận dụng Kiều nhuyễn như vậy không thể nào là TT mà phải là… Nguyễn Bính?
TT cay cú, phớt tình: “sá gì cái đẹp, sá gì những chuyện tâm tình” tức là chẳng đáng giá gì khi níu kéo lại một tình xưa. Thất bại trong trường tình và khinh mạn người đẹp, nội dung này chỉ có trong thơ Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương. Thơ “bợm nhậu” lại bật ra từ đoạn đầu: “hãy uống thực say” và đoạn kết thúc “lòng đau đem chữa trong bình ruợu cay”. NB ít khi “chế rượu” tưới thơ mình như vậy cả. Trong những tình nghi viên, THT, Vũ Hoàng Chương dùng rượu tưới thơ mình. TT cũng mượn rượu nhưng là chén rượu “lưu biệt” cùng bạn“xin cạn chén rượu để tôi đi”. Chí khí uống rượu “bốc men” ngang tàng “ném chén cười cho đã mắt ta” nhưng là chén rượu “cực kỳ trong sạch cực sây mê”. Cái say mê của người trai thời loạn muốn bức phá khỏi dòng sông chỉ“cắm chặt sông đây một chiếc bè”. Tức là muốn làm thuyền lớn ra khơi chứ không phải “uống rượu tiêu sầu” như Nguyễn Công Trứ hay vì lòng đau tình mà đem tình“chứa/chữa trong bình rượu cay” như Thâm Tâm giả ở trên.
----
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét